Không đủ căn cứ để buộc tội phải kết luận người bị bắt không có tội
Ảnh minh họa |
Về nguyên tắc “Suy đoán vô tội” và nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” (Điều 13, Điều 26), đa số ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) cho rằng nội dung nguyên tắc “Suy đoán vô tội” và nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” trong dự thảo còn chung chung, chưa đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến các ĐBQH, để làm rõ hơn nội dung các nguyên tắc này, đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa Hiến pháp, bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị chỉnh lý nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13). Theo đó, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội.
Về nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 26), các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải có lý do chính đáng; Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng để làm rõ sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định mức hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả thẩm tra chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Trước đó, phiên họp về Dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi cũng nóng bởi ý kiến đại biểu xung quanh tội phạm tham nhũng. Một số ý kiến đề nên bỏ hình phạt tử hình để tập trung vào biện pháp thu hồi tài sản và không nên quan niệm việc này là dùng tiền mua án.
Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) bỏ hình phạt tử hình ở 7 tội danh cũng như quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên khi phạm tội, đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ, sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn cũng được xem xét không áp dụng án tử hình.
Ủng hộ quan điểm của ban soạn thảo, đại biểu tỉnh An Giang, ông Trần Văn Độ đề xuất có thể bỏ thêm hình phạt tử hình ở nhiều tội hơn vì thực tế không áp dụng bao giờ, tính răn đe không cao. Vị đại biểu nguyên Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, nguyên Chánh toà quân sự này thấy rằng, “có tội bỏ tử hình người dân chưa đồng tình nhưng là người có nhiều năm nghiên cứu luật hình sự, tôi cho là không phải cứ áp dụng hình phạt tử hình thì giảm tội phạm. Tử hình có tác dụng răn đe không nhiều".
Dẫn chứng qua thực tế xét xử các vụ án hình sự có hình phạt tử hình, đại biểu Độ cho biết nhiều bị cáo khi được hỏi có nghĩ sẽ bị tử hình nếu phạm tội không thì trả lời rằng không nghĩ gì. Với tội phạm ma tuý thì đối tượng nghĩ vận chuyển trái phép một bánh cũng bị tử hình rồi thì 1.000 bánh cũng vậy, xác định thế nên cứ ung dung phạm tội.
Tuy nhiên, đại biểu Trần Ngọc Vinh cho rằng cần giữ lại hình phạt này ở một số tội danh để xử lý nghiêm minh. Chẳng hạn, không nên giảm tử hình với người từ 75 tuổi trở lên vì đối tượng đã trải qua cuộc sống, chín chắn, biết hậu quả của các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phản quốc hay ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Bày tỏ lo lắng trước tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, nguy hiểm, manh động, đại biểu Nguyễn Bá Thuyền, Phó trưởng đoàn chuyên trách đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cũng không đồng tình với việc bỏ án tử hình với 7/22 tội. Còn đại biểu Nguyễn Anh Sơn phó đoàn Nam Định nêu ý kiến, “giữ lại thay vì bỏ đi hình phạt tử hình với tội vận chuyển trái phép ma tuý thì chí ít cũng làm cho người bị thiệt hại yên lòng, người dân tin rằng kẻ nào gây ra tội phải đền tội”.