Kinh tế 2023: Chủ động ứng phó với những cơn gió ngược
Tiếp tục phục hồi kinh tế - Các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng | |
Tăng năng suất lao động - con đường để tránh tụt hậu cạnh tranh | |
Cần thêm hỗ trợ để doanh nghiệp vượt "sóng gió" |
Đây là nhận định được nhiều diễn giả, chuyên gia đưa ra tại Diễn đàn Nhịp đập Kinh tế Việt Nam (VEP) do Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế, xã hội quốc gia (NCIF) phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đồng tổ chức ngày 22/11.
Rủi ro từ những cơn gió ngược
Tại diễn đàn, ông Francois Painchaud - Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam và Lào cho biết, với sự phục hồi nhanh và mức tăng trưởng mạnh cho đến tháng 9, IMF đã điều chỉnh tăng mạnh dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 lên khoảng 7-7,5% so với mức 6% trong dự báo trước đó. Tuy nhiên, do hàng loạt “cơn gió nghịch” trên toàn cầu, nổi lên là điều kiện tài chính thắt chặt; cầu bên ngoài chậm lại, triển vọng tăng trưởng giảm xuống trong khi lạm phát tiếp tục ở mức cao nên IMF cũng hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2023 xuống 5,8%. Trong khi đó, lạm phát dự kiến cũng sẽ tăng lên trước khi dần trở lại dưới mức 4%. Triển vọng cho kịch bản cơ sở là như vậy, nhưng ông Francois Painchaud cũng cảnh báo: “Rủi ro đối với tăng trưởng GDP năm tới nghiêng về hướng giảm và rủi ro đối với lạm phát nghiêng về hướng sẽ tăng lên”.
Cùng quan điểm này và trên cơ sở cập nhật các nhận định về những xu hướng tăng trưởng, lạm phát trên toàn cầu, khu vực và độ trễ tác động đến Việt Nam, TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia dự báo: “Tăng trưởng năm 2023 sẽ ở mức 6-6,5% trong khi lạm phát sẽ trong khoảng 4-4,5%”.
Xuất khẩu là một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng |
Theo bà Ramla Khalidi - Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, triển vọng kinh tế Việt Nam tươi sáng nhưng rủi ro cũng đang gia tăng. “Những rủi ro chủ yếu đến từ bên ngoài. Xung đột tại Ukraine vẫn đang diễn ra, đồng USD tiếp tục mạnh lên, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại và một số nền kinh tế lớn đối mặt với suy thoái… Tất cả những yếu tố như vậy có thể ảnh hưởng đến nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam và làm tăng rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô. Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần chú ý sát sao đến các điều kiện bên ngoài, cũng như cảnh giác, điều chỉnh chính sách tài khóa và tiền tệ kịp thời với diễn tiến thay đổi trên toàn cầu”, bà Ramla Khalidi lưu ý. Bên cạnh đó, cũng có những rủi ro đến từ trong nước, đặc biệt thị trường tài chính và trái phiếu doanh nghiệp - vốn rất nhạy cảm với những điều kiện thay đổi nhanh chóng trong lĩnh vực bất động sản. Ngoài ra, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu sẽ ngày càng đè nặng lên sản xuất nông nghiệp, sức khỏe và sự an khang của các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng, bão lũ và hạn hán...
Báo cáo “Cập nhật Triển vọng kinh tế Việt Nam” được công bố tại VEP lần này cho thấy cả cơ hội và thách thức mà Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt. Trong đó, tuy bối cảnh kinh tế toàn cầu năm 2022 - 2023 dự kiến vẫn sẽ vô cùng khó khăn, bất định (đặc trưng bởi vòng xoáy lạm phát cao, thiếu hụt nguồn cung tiếp diễn khiến các điều kiện tài chính tiếp tục bị thắt chặt và có thể khiến kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái trong năm 2023) nhưng ở thời điểm hiện tại, kinh tế Việt Nam được đánh giá có khả năng chống chịu khá tốt. Sự phục hồi trong năm 2022 (GDP dự kiến tăng trưởng khoảng 8 -8,2%) sẽ là “điểm tựa” để tiếp tục quá trình phục hồi trong năm 2023. Năm tới cũng là năm tâm điểm của thực hiện Chương trình phục hồi, trong khi sự phục hồi của thị trường lao động cùng với các chính sách hỗ trợ an sinh, hỗ trợ người lao động đang được triển khai là điều kiện quan trọng cho phục hồi sản xuất. Trong khi đó, tổng cầu nội địa dự báo sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính cùng với sự phục hồi của các hoạt động kinh tế và các FTA thế hệ mới sẽ tiếp tục thúc đẩy cơ hội gia tăng xuất khẩu.
Tác động của các biến động thế giới tới GDP của Việt Nam so với kịch bản cơ sở (nguồn: Tính toán của NCIF dựa trên mô hình NiGEM) |
Nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách
Tuy nhiên, theo TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban Kinh tế ngành và Doanh nghiệp (NCIF) những yếu tố cản trở đà phục hồi trong năm tới cũng không ít và chủ yếu từ các yếu tố từ bối cảnh bên ngoài.
Các chuyên gia cũng lưu ý, một rào cản “cố hữu” nữa là những yếu kém nội tại của nền kinh tế. Cải cách thể chế và môi trường kinh doanh vẫn còn những hạn chế. Đồng thời, những rủi ro tài chính có thể tăng lên khi nhìn vào những yếu kém trên bảng cân đối tài sản của khu vực doanh nghiệp, ngân hàng và hộ gia đình, do đó có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của đầu tư và tiêu dùng trong nước. Ngoài ra, các hạn chế liên quan đến việc triển khai các chính sách trong Chương trình phục hồi kinh tế cũng có thể làm giảm hiệu quả tác động của chính sách.
TS. Trần Toàn Thắng nhận định, kinh tế Việt Nam năm 2023 đi theo kịch bản nào sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đã kể trên. Với các yếu tố tác động này, kinh tế Việt Nam năm 2023 có thể diễn ra theo hai kịch bản. Kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế có thể chỉ ở mức 6-6,2% nếu các yếu tố rủi ro lấn át xu hướng phục hồi đã thiết lập trong năm 2022. Kịch bản 2, khả quan hơn, tăng trưởng kinh tế có thể đạt mức 6,5-6,7% trong điều kiện quá trình phục hồi diễn ra thuận lợi hơn, các tác động từ bối cảnh quốc tế không quá lớn.
Theo ông Francois Painchaud, để đối phó với thách thức, các chính sách cần được tính toán, phối hợp và truyền thông một cách cẩn trọng để quản lý những rủi ro, tiêu cực và giảm bớt sự đánh đổi chính sách, đặc biệt là sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát. “Trong bối cảnh hiện nay, chính sách tiền tệ cần tập trung vào ổn định giá cả và nên cân nhắc thắt chặt hơn nếu áp lực lạm phát gia tăng. Đồng thời, chính sách tài khóa cần linh hoạt và nhắm trúng đối tượng hơn nếu áp lực lạm phát tiếp tục tăng lên”, Trưởng đại diện của IMF đề xuất.
Theo Báo cáo “Cập nhật Triển vọng kinh tế Việt Nam” được công bố tại diễn đàn, đóng góp của xuất khẩu trong tăng trưởng kinh tế có thể thấp hơn kỳ vọng, khi sản lượng xuất khẩu thực tế (loại trừ yếu tố giá) đang có xu hướng tăng chậm trong bối cảnh các chi phí vận tải, logistics và bảo hiểm tăng cao. Trong khi đó, cầu nội địa còn phụ thuộc rất lớn vào sự phục hồi của thu nhập và khả năng đảm bảo an toàn dịch bệnh trong thời gian tới. |