Ký ức thời ngân hàng “nuôi” kháng chiến
Về nơi nguồn cội | |
Thống đốc và những chuyến “vi hành” | |
Người thủ quỹ mẫu mực |
Trong suốt 20 năm kháng chiến chống Mỹ, có một con đường vận chuyển tiền tệ vô cùng bí mật được vận hành linh hoạt và sáng tạo bởi một “binh chủng tiền” với hàng ngàn chiến sĩ vốn là những cán bộ tài chính – NH.
Từ trước đến nay, người ta thường nhắc đến đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển trong chiến tranh phá hoại của Mỹ. Gần đây, với những tư liệu và hình ảnh, nhiều tổ chức, đơn vị đã chứng minh trong chiến cuộc, có một con đường bí mật vốn là huyết mạch thời kỳ chiến tranh ít được nhắc tới. Đó là con đường chuyển tiền từ Bắc vào Nam. Không có con đường này, nguồn tài chính cho cuộc chiến không vào được chiến trường, bộ máy kháng chiến tại miền Nam không có chi phí để hoạt động. Hết thảy mọi viện trợ bằng ngoại tệ của các nước XHCN và bạn bè quốc tế sẽ không thể chuyển đổi thành tiền bản địa để các chiến trường sử dụng. Và như thế cuộc chiến chống Mỹ sẽ khó mà đạt được những chiến công vang dội như lịch sử đã diễn ra. Con đường tiền tệ nhằm chi viện cho miền Nam đã được Đảng, Nhà nước lập ra từ năm 1955, sau một thời gian rất ngắn hòa bình lập lại trên đất Bắc đã được vạch ra với nhiều kế hoạch âm thầm.
Manh nha đầu mối chuyển ngân
Sau Hiệp định Genève năm 1954, chính quyền cách mạng phải bàn giao một số khu vực đất đai và con người theo thỏa thuận ký kết trong hiệp định và tổ chức tập kết phần lớn lực lượng kháng chiến ra miền Bắc. Tại các chiến trường miền Nam, hầu hết nhu cầu tài chính đều được các cơ sở cách mạng giải quyết tại chỗ. Theo đó, ngoài việc chủ động lập ra các cơ sở kinh doanh hợp pháp, các đơn vị, cán bộ ở lại miền Nam phần đông tự lao động, sống hòa lẫn trong dân để bí mật thực hiện những nhiệm vụ cách mạng giao cho.
Thời điểm đó Ban Tài chính Xứ ủy Nam bộ đã chỉ định một số đảng viên xây dựng cơ sở công khai để làm tài chính cho Đảng. Các cơ sở đầu tiên làm bình phong để chuyển đổi tiền phục vụ kháng chiến như xưởng cưa Dân Sanh tại Sài Gòn, vựa than tại chợ Mỹ Tho… do ông Nguyễn Văn Phi (tức Mười Phi, Thăng Long) và Nguyễn Thanh Quang (tức Dân Sanh) quản lý, đã bắt đầu hoạt động. Song song đó, tại Hà Nội, Sở Quản lý ngoại hối thuộc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã bắt đầu đảm nhiệm công việc chuyển tiền bạc vào chiến trường miền Nam.
Đơn vị Ngân tín R/C.32 được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân tháng 2/2015 |
Những năm đầu sau khi hòa bình lập lại, nguồn viện trợ quốc tế bằng ngoại tệ khá hạn chế. Ngân sách Trung ương phải trích ra để mua tiền Sài Gòn (tiền Z) ở thị trường nước ngoài, sau đó chuyển vào Nam theo đường bộ. Tuy nhiên, từ năm 1960, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc, việc đưa viện trợ tiền bạc và vật chất vào Nam gặp nhiều khó khăn.
Năm 1965, ông Phạm Hùng (Phó Thủ tướng phụ trách vấn đề chi viện miền Nam) đã đề xuất với Bộ Chính trị một quyết định có ý nghĩa lịch sử là lập riêng tại miền Bắc một “Quỹ Ngoại tệ đặc biệt” (Quỹ B.29). Quỹ này có danh nghĩa là Cục Ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, trong điều hành, quỹ chỉ chịu sự chỉ đạo đơn tuyến của Ban Viện trợ miền Nam. Tài sản của quỹ được lấy từ các nguồn viện trợ quốc tế để dành riêng cho miền Nam và được sử dụng một cách độc lập chứ không liên quan đến vốn ngoại tệ công khai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi đã thành lập xong Quỹ B.29, đơn vị bí mật này được “biên chế” 14 cán bộ phụ trách. Người trực tiếp điều hành là ông Mai Hữu Ích (Bảy Ích) lúc đó là Phó cục trưởng Cục Ngoại hối, đồng thời là ủy viên Ban Viện trợ miền Nam.
Theo lời kể trong hồi ký của một số cán bộ trực tiếp phụ trách Quỹ B.29, cách thức hoạt động của đơn vị này có thể được diễn giải đơn giản như sau: Nguồn tiền viện trợ từ các nước XHCN và bạn bè quốc tế (bao gồm nhiều loại như: đô la Mỹ, đô la Hồng Kông, franc Pháp, bảng Anh...) được B.29 tập hợp, sau đó gửi vào tài khoản tại Vietcombank. Vietcombank lại gửi nguồn vốn này tại các NH ở Hồng Kông, Pháp và một số NH quốc tế lớn đáng tin cậy.
Ông Mai Hữu Ích (phía trước) và ông Lữ Minh Châu trong thời kỳ các đơn vị B.29 và N.2683 bắt đầu phối hợp vận chuyển tiền bằng phương pháp FM năm 1966 (ảnh chụp lại từ tư liệu của đơn vị N.2683) |
Sau khi nhận viện trợ xong, B.29 căn cứ trên những diễn biến thị trường tiền tệ quốc tế để đổi một số ngoại tệ như đô la Hồng Kông, franc Pháp, bảng Anh… sang đô la Mỹ và một số loại tiền để chi dùng trong các chiến trường miền Nam (như tiền Z, tiền Baht Thái, Kip Lào…). Việc chuyển đổi tiền được thực hiện chủ yếu tại Hồng Kông dưới sự hỗ trợ về nghiệp vụ của Vietcombank, Bank of China. Khi đã đổi ra đô la Mỹ bằng tiền mặt, B.29 chịu trách nhiệm đưa tiền từ Hồng Kông về Hà Nội, đóng gói và lưu trữ tại kho riêng của mình tại Ngân hàng Quốc gia, chờ lệnh vận chuyển vào miền Nam theo chỉ đạo của Ban Viện trợ.
Cõng tiền vào Nam “chế biến”
Việc chuyển tiền viện trợ từ B.29 từ Hà Nội vào Nam giai đoạn đầu được thực hiện theo cách thức “xách tay”. Theo đó, đơn vị C100 (thuộc Đoàn 559 - Tổng cục Hậu Cần) được giao nhiệm vụ phối hợp vận chuyển tiền vào các chiến khu phía Nam. Tiền tới địa chỉ nào thì nơi đó có đơn vị đặc nhiệm của Ban Kinh tài và Ban Ngân tín R (trực thuộc Trung ương Cục miền Nam - TWCMN) tiếp nhận và cất giữ.
Vì hầu hết tiền chi viện từ B.29 là đô la Mỹ, nên khi có nhu cầu chi tiêu bằng biệt tệ thì các đơn vị thuộc Ban Kinh tài sẽ phải “chế biến tại chỗ”. Tức là thông qua các cơ sở kinh doanh trong mạng lưới của mình để đổi đô la Mỹ sang các đồng tiền khác như tiền Z, Kip Lào, Baht Thái để cấp phát cho các đơn vị quân đội. Ngoài cách thức vận chuyển bằng đường bộ do đơn vị C100 phụ trách, một phần tiền viện trợ từ B.29 cũng được chuyển vào Nam theo đường hàng không, quá cảnh sang Campuchia.
Trong suốt gần 20 năm kháng chiến, hàng trăm triệu đô la chi viện miền Nam đã được vận chuyển qua con đường Trường Sơn (ảnh tư liệu của Đoàn 559 - Bộ Tư lệnh Trường Sơn) |
Trong hồi ký “Đồng đô la trong cuộc kháng chiến chống Mỹ”, ông Bảy Hiền (trợ lý của ông Phạm Hùng - PV) viết: “Khi cần đưa tiền đi, anh Hai Hùng (tức Phạm Hùng - PV) gọi anh Thùy Vũ người đại diện Chính phủ tại Phnôm Pênh, Campuchia về Hà Nội làm việc. Tôi cầm lệnh xuất tiền của anh Hai đến Cục Ngoại hối gặp anh Doãn - Cục trưởng hoặc anh Bảy Ích - Cục phó. Nhận tiền xong, dùng xe anh Hai Hùng chở tiền về phòng làm việc của tôi tại nhà anh Hai Hùng. Ở đây, tiền được gói ghém dưới dạng hàng mẫu để giao cho anh Thùy Vũ mang vào Phnôm Pênh bằng máy bay. Tiền đến Phnôm Pênh, anh Thùy Vũ giao lại cho người của anh Thăng Long. Và thường là một hai tuần sau đó, tôi nhận được điện từ TWCMN xác nhận tiền đã nhận đủ”.
Bằng những cách thức vận chuyển đó, trong một thời gian dài nguồn tiền viện trợ từ B.29 vào các chiến trường miền Nam diễn ra khá đều đặn. Song song đó, các cơ sở của Ban Kinh tài, Ban Ngân tín R (thuộc TWCMN) cũng chủ động mở rộng liên kết với giới kinh doanh tại Sài Gòn, Phnôm Pênh để thực hiện chế biến, chuyển đổi tiền. Một số cơ sở lớn như Công ty Tân Á tại Phnôm Pênh (do ông Nam Cường phụ trách), hệ thống đường dây buôn bán vàng, ngoại tệ lớn nhất Sài Gòn – Chợ Lớn (do ông Tư Trần Anh làm chủ) đã gia nhập vào đường dây chế biến tiền phục vụ cách mạng.
Tuy nhiên, bước sang những tháng giữa năm 1965, tình hình chiến tranh diễn ra ác liệt trên khắp các mặt trận ở miền Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa tăng cường các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” khiến cho việc chế biến đồng đô la Mỹ ra các loại tiền biệt tệ trở nên hết sức khó khăn, hoạt động vận chuyển tiền trực tiếp bằng đường bộ và đường hàng không cũng không còn suôn sẻ vì bất cứ lúc nào cũng có thể bị địch phục kích, đánh bom, gây thiệt hại cả người lẫn tiền.
Bí mật chuyển tiền bằng phương pháp FM
Khi nhận thấy việc chuyển tiền mặt theo đường bộ và đường hàng không gặp quá nhiều rủi ro và mất mát, các cán bộ phụ trách Ban Kinh tài TWCMN bằng kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ của mình đã đề xuất Chính phủ thực hiện “vận chuyển” tiền chi viện theo phương pháp mới gọi là phương pháp FM.
Đáp ứng đề xuất này, giữa năm 1956, ông Bảy Ích đã bí mật trực tiếp từ Hà Nội vào Phnôm Pênh gặp các ông Thăng Long và Dân Sanh để khảo sát, bàn bạc và thống nhất cách thức vận chuyển tiền tệ thông qua việc chuyển khoản giữa các NH với các cơ sở kinh doanh có quan hệ với chính quyền cách mạng.
Sau cuộc gặp bí mật này, từ Hà Nội, các ông Nguyễn Nhựt Hồng, Lê Văn Châu, Nguyễn Hữu Hai được cử đến Hồng Kông, Bắc Kinh và Paris để phụ trách những cơ sở đầu mối của B.29. Trong lúc đó, ông Lữ Minh Châu được cử vào Sài Gòn, phối hợp với các ông Thăng Long và Dân Sanh thành lập Ban Tài chính đặc biệt - N.2683 làm đầu mối thực hiện việc chuyển và nhận tiền chi viện.
Theo lời kể của ông Thăng Long, việc chuyển tiền theo phương pháp FM được thực hiện linh hoạt bằng nhiều cách, nhưng đa số có quy trình như sau:
Tại Sài Gòn và Phnôm Pênh, các cơ sở kinh doanh quan hệ với N.2683 sẽ lấy danh nghĩa sản xuất kinh doanh để rút tiền Z và các loại biệt tệ khác từ NH, sau đó ứng trước cho nhu cầu chi dùng của Ban Kinh tài TWCMN. Việc nhận tiền Z được N.2683 và các cơ sở kinh doanh bí mật thực hiện tại các địa điểm an toàn. Sau đó số tiền sẽ được N.2683 và Ban Ngân tín R (C.32) vận chuyển về căn cứ để cấp phát đến các đơn vị trong chiến trường. Khi đã nhận đủ số tiền theo nhu cầu, N.2683 và C.32 sẽ báo về Hà Nội cho B.29, đơn vị này căn cứ vào số lượng tiền mà các cơ sở kinh doanh ứng trước để chuyển khoản “thanh toán” lại cho họ bằng đô la Mỹ thông qua tài khoản của mình tại các NH ở nước ngoài.
Bằng phương pháp FM, bắt đầu từ những năm 1966 cho đến lúc kết thúc chiến tranh, các chiến trường miền Nam nhận được chi viện tài chính rất nhanh chóng. Nhu cầu chế biến ngoại tệ trở thành các đồng tiền bản tệ để các chiến khu chi dùng cũng không còn gay gắt. Chính vì thế con đường chuyển tiền từ Bắc vào Nam càng trở nên bí mật, tránh được sự nghi ngờ của đối phương cũng như đảm bảo nguồn tiền chi viện được nguyên vẹn phục vụ miền Nam kháng chiến.
Bí mật đến phút chót
Tháng 4 năm 1975, cuộc chiến chống Mỹ kết thúc với thắng lợi trọn vẹn. Quỹ ngoại tệ đặc biệt– B.29, Ban Tài chính đặc biệt – N.2683, Ban Ngân tín R – C.32 và guồng máy kinh tài của Đảng ở khắp các chiến trường miền Nam chấm dứt nhiệm vụ lịch sử của mình. Theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, những đơn vị này tiến hành việc “quyết toán” theo đúng nghiệp vụ ngân hàng. Theo đó các chiến trường đã tiến hành đối chiếu các số liệu về tiếp nhận viện trợ của Trung ương bằng ngoại tệ thông qua B.29 trong suốt những năm kháng chiến đến ngày 30/4/1975.
Bản “báo cáo quyết toán” do đích thân ông Bảy Ích thực hiện (đang lưu giữ tại NHNN) thể hiện rõ rằng, từ năm 1964 đến 1975, Quỹ B.29 nhận viện trợ bằng ngoại tệ từ tất cả các nước XHCN và bạn bè quốc tế là trên 678,7 triệu đô la Mỹ, trong đó phần đã được chuyển vào Nam cả bằng đường bộ và đường chuyển khoản là gần 529,28 triệu đô la Mỹ. Tồn quỹ đến ngày 30/4/1975 là trên 149,4 triệu đô la Mỹ.
Như vậy, rõ ràng là trong suốt thời kỳ kháng chiến “con đường tiền tệ” mà các cán bộ - chiến sĩ ngành NH đã lập ra và vận hành là một con đường có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc giải phóng miền Nam. Những chiến sĩ thầm lặng từng công tác tại B.29, N.2683, C.32 và cả những “cộng tác viên” là các thương nhân Việt kiều, Hoa kiều đã hỗ trợ các đơn vị chế biến, vận chuyển tiền tệ thực sự đã hợp thành một “binh chủng tiền” mang vác sứ mệnh huyết mạch không thể thiếu trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Và cuối cùng, điều đáng để tôn vinh hơn đối với “binh chủng tiền” và con đường tiền tệ huyền thoại là trong gần 20 năm hoạt động, dù có một số cơ sở, một số cán bộ chiến sĩ bị địch bắt, nhưng về cơ bản con đường chuyển tiền từ Bắc vào Nam giữ được bí mật đến phút chót. Ngay cả những tài liệu còn lưu giữ lại của quân đội Mỹ trong thời gian chiến tranh cũng thừa nhận rằng, họ có thể nắm được ít nhiều về con đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển, nhưng gần như không có tài liệu hoặc báo cáo gì liên quan đến con đường vận chuyển tiền chi viện vốn là mắt xích then chốt quyết định thành bại ở các chiến trường miền Nam trong những năm cuối của thập niên 70 thế kỷ trước.
Không có con đường này, nguồn tài chính cho cuộc chiến không vào được chiến trường, bộ máy kháng chiến tại miền Nam không có chi phí để hoạt động. |