Lịch sử lật trang
Về nơi nguồn cội | |
Nhà ngân hàng Lê Viết Lượng | |
Dấu ấn một cung đường |
Vận mệnh đất nước nhìn từ cục diện tiền tệ
Độc lập, tự chủ của một quốc gia không chỉ là quyền làm chủ của nhân dân với bộ máy Nhà nước có quyền hành pháp, quyền lập pháp… mà quốc gia đó còn phải có đồng tiền riêng. Chính vì thế, dù đến ngày 5/6/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh mới ký Sắc lệnh số 15 - SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhưng thực tế, từ năm 1945, sau khi Bác Hồ tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cùng với việc bảo vệ nhà nước non trẻ, cuộc chiến tiền tệ âm thầm nhưng rất quyết liệt bắt đầu.
Chưa có con số thống kê chính thức nào về những hy sinh, mất mát của những người tham gia cuộc chiến ấy, cuộc chiến mà chúng ta bắt đầu với ngân khố 1.230.720 đồng tiền mất giá và gánh nợ ngân phiếu chưa trả 564.367.522 đồng. Trong bối cảnh của nước Việt Nam non trẻ khi ấy, người dân đói nghèo, loạn lạc loay hoay với việc quy đổi: “Giấy Quan kim, 1,5 đồng ta trị giá bằng 1 đồng Quan kim; Giấy Quốc tệ, 1 đồng ta trị giá 13,3 đồng Quốc tệ”. Thông cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng lúc đó là thế, nhưng thực tế tiền Quốc tệ, tiền Đông Dương nhiều như… giấy vụn, khiến nhiều khi chúng ta phải sử dụng cả hình thức hàng đổi hàng cổ xưa.
Trong cuộc chiến không tiếng súng đó, khi lùi, khi tiến, để từng bước đạt mục tiêu: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tham gia kiểm soát Ngân hàng Đông Dương, xử lý sự lũng loạn của tiền Quan kim, tiền Đông Dương…tiến đến cho ra đời giấy bạc Cụ Hồ, phát hành rộng khắp đồng thời “Việt Nam hóa” tiền Đông Dương. Chính phủ đã cho thành lập ba khu vực tiền tệ để phát hành rộng khắp các loại “giấy bạc Việt Nam“ với nhiều mệnh giá. Ngày 30/4/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 180/SL tuyên bố: tất cả các loại giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương đều không có giá trị trong vùng kháng chiến… Ngày 8/7/1948 Chính phủ ra Sắc lệnh số 199/SL quy định “đồng” là đơn vị tiền tệ Việt Nam.
Tháng 5/1986, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 65/HĐBT về chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của NHNN Việt Nam. Đây cũng là năm đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển của đất nước: Đổi mới. Cùng với sự chuyển động mạnh mẽ của nền kinh tế (từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang mô hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành phần) ngành Ngân hàng cũng thí điểm thực hiện Đề án: đổi mới cơ chế hoạt động và đổi mới hệ thống tổ chức ngân hàng.
Năm 1990 khi đề án “Đổi mới hoạt động ngân hàng” được Hội đồng Bộ trưởng thông qua và sự ra đời của hai pháp lệnh về NH năm đó đã đưa ngành Ngân hàng bước sang giai đoạn phát triển mới: ngân hàng hai cấp, tách bạch chức năng quản lý và chức năng kinh doanh tiền tệ - bắt đầu thời kỳ cải tổ mạnh mẽ. Nếu như NHNN phải chuyên nghiệp hơn trong quản lý, điều hành thì các NH cấp phát lúc đó đứng trước lựa chọn sống còn, phải chuyển đổi mô hình hoạt động thành những NHTM như: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam… Ngày 5/6/1992, với việc NHNN cấp phép giấy phép hoạt động cho ngân hàng quốc gia Paris mở chi nhánh tại Việt Nam – một trong những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu thời kỳ mở cửa, hội nhập sắp đến.
“Bão” hội nhập và bài học từ khủng hoảng
Tháng 1/2007, sau hàng trăm vòng đàm phán, cuối cùng Việt Nam cũng chính thức gia nhập WTO; đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác tài chính ngân hàng với nội khối ASEAN, ASEAN +3… Thế nhưng chưa kịp thấy những cơ hội từ việc mở cửa, hội nhập mang lại thì chúng ta đã phải hứng chịu “bão” từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2007 - 2008 và suy thoái kinh tế thế giới kéo dài. Cuộc khủng hoảng khiến hàng loạt những gã khổng lồ như Lehman Brother, Morgan Stanley, Citigroup… gục ngã. Trong nước, chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh sau một thời gian dài ổn định dưới 10% (năm 2007 ở mức 12,6%; 2008 tăng lên 19,9%); chứng khoán đóng băng; hiện tượng vàng hóa, đô la hóa tăng mạnh… NHNN đã làm gì lúc đó để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế tăng trưởng nóng?.
Hàng loạt giải pháp với việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ một cách quyết liệt đã được NHNN thực thi như: phát hành tín phiếu bắt buộc; ấn định lãi suất kinh doanh của NHTM với chốt chặn không quá 150% lãi suất cơ bản (do NHNN công bố trong từng thời kỳ); tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,đồng thời mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; điều chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành… Nói như nguyên Phó Thống đốc NHNN Dương Thu Hương trong một lần trả lời phỏng vấn Thời báo Ngân hàng: Năm 2008, NHNN đã thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, dùng luật để ngăn chặn cuộc đua lãi suất, khống chế sự đổ vỡ. Chỉ có luật pháp mới có thể chặn đứng lại việc đó. Đây là giải pháp tối ưu nhất…
Ngoài những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới thì chúng ta cũng phải thừa nhận, thời điểm đó hệ thống pháp luật về tiền tệ, ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ và khá nhiều vấn đề chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng rủi ro thị trường, trong khi năng lực điều hành chính sách tiền tệ, cũng như năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN còn hạn chế. Đối với các NHTM thì vốn nhỏ, năng lực tài chính thấp, chất lượng tài sản chưa cao; khả năng sinh lời thấp; sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, hạ tầng công nghệ còn hạn chế… Việc xuất hiện các định chế tài chính, ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã buộc các ngân hàng Việt Nam phải tiếp tục cơ cấu lại cả về tổ chức, năng lực tài chính và hoạt động để có thể cạnh tranh và phát triển trong điều kiện mới. Đây cũng là một trong những lý do cơ bản để chúng ta sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động NH qua việc xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, thay thế hai luật về NH được ban hành từ năm 1997.
“Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền…”
Cuối năm 2008, để ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30/2008/NQ – CP. Chính phủ giao NHNN chủ trì cùng các bộ, ngành liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các quy định về cơ chế hỗ trợ lãi suất để triển khai gói hỗ trợ lãi suất lên đến 17.000 tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD thời điểm đó). Sau đó, 6 chương trình hỗ trợ lãi suất đã được triển khai kéo dài từ 2009 đến hết 2012, với mức hỗ trợ lãi suất phổ biến nhất là 4%/năm, có đối tượng được hỗ trợ 100%.
Những chương trình hỗ trợ lãi suất này đã giúp nhiều DN vượt qua khó khăn; tăng trưởng kinh tế năm 2010 giữ được ở 6,78% nhưng lại dẫn đến hệ lụy là tăng trưởng tín dụng (trung bình tăng khoảng 30%/năm) vượt xa tốc độ tăng GDP. Đặc biệt, việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, nới lỏng chính sách tiền tệ đã khiến lạm phát tăng mạnh, lên mức 11,75% năm 2010. Đến tháng 12/2010, nếu so với thời điểm tháng 12/2000, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 97,7%; giá vàng đã tăng gấp 7,3 lần; và USD tăng 43%. Cùng với đó cuộc đua lãi suất không giảm tốc với lãi suất huy động VND lên tới 14 - 16%/năm, có ngân hàng đã huy động với lãi suất 17 - 18%/năm; Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 19 - 22%/năm; và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có lúc lên đến 30%, thậm chí 40%/năm.
Để giảm mặt bằng lãi suất, NHNN đã triển khai nhiều biện pháp “bàn tay sắt”: Chấn chỉnh các TCTD trong việc thực hiện trần lãi suất huy động; yêu cầu các TCTD cắt giảm chi phí để cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất cho vay hỗ trợ DN; áp dụng trần lãi suất cho vay đối với một số lĩnh vực ưu tiên... Cùng với đó, NHNN đã sử dụng hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, đồng thời kiểm soát lượng tiền cung ứng. NHNN cũng áp dụng cơ chế giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hợp lý, phù hợp với quy mô, khả năng quản trị của từng TCTD. Từ cảnh thị trường “loạn cào cào” vì mỗi NH áp dụng một mức lãi suất, không ai có thể ngờ, đến tháng 11/2012, hơn 80% dư nợ toàn hệ thống đã ở mức lãi suất dưới 15%/năm.
Đối với vàng, NHNN đưa ra thời hạn để các TCTD tất toán tài khoản vàng. Đặc biệt với việc triển khai Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, NHNN đã từng bước khắc phục tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế. Để bình ổn thị trường, NHNN đã tổ chức đấu thầu vàng - việc chưa từng có tiền lệ. Từ ngày 28/3/2013 đến ngày 31/12/2013, NHNN đã thực hiện 76 phiên đấu thầu vàng, bán ra 1.819.900 lượng (tương đương 69,9 tấn). Chọn SJC là thương hiệu vàng quốc gia, NHNN quản lý chặt việc sản xuất và kinh doanh vàng miếng…Từ chỗ bị đầu cơ, làm giá với những cơn sốt nóng liên tục, giờ vàng miếng bị nhà đầu tư “bỏ quên”. Giá vàng trong nước gần đây liên tục thấp hơn giá vàng thế giới. Cùng với thiết lập trật tự trên thị trường vàng, lãi suất, NHNN áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, ổn định nhưng không cố định. Trước rất nhiều sức ép từ thị trường, nhưng năm 2012 NHNN không điều chỉnh tỷ giá; năm 2013 và 2014 chỉ điều chỉnh 1%. Năm 2015, trước diễn biến phức tạp của đồng Nhân dân tệ, sức ép từ thị trường trước khả năng FED tăng lãi suất... NHNN đã linh hoạt điều chỉnh tăng 3% tỷ giá bình quân liên NH, tăng biên độ tỷ giá lên +/- 3%. Những biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt, đồng bộ và đảm bảo tính nhất quán với mục tiêu chuyển dần từ quan hệ huy động và cho vay bằng ngoại tệ sang mua bán ngoại tệ theo chủ trương chống đô la hóa trong nền kinh tế.
Thận trọng, linh hoạt là phương thức xuyên suốt trong điều hành CSTT của NHNN những năm gần đây. Với phương thức này, ngành Ngân hàng đã đóng góp tích cực vào mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Năm 2015 GDP tăng 6,68%, cao hơn mức tăng của các năm 2011 - 2014; trong khi đó lạm phát chỉ tăng 0,6% - thấp nhất trong vòng 14 năm trở lại đây. Trong tất cả những thành công trên, điều quan trọng nhất, không chỉ thể hiện bằng những con số, mà cao hơn là vị thế, niềm tin vào ngành Ngân hàng trong sự đánh giá từ dư luận xã hội, đến các thành viên Chính phủ, các đại biểu Quốc hội đã thay đổi.
2013 cũng là năm ngành Ngân hàng triển khai đề án: “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” theo Quyết định số 254/QĐ - TTg ngày 01/3/2012 của Chính phủ (Đề án 254). Triển khai đề án 254 cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải giải quyết những vấn đề gai góc nhất đã, đang tồn tại của ngành Ngân hàng: nợ xấu cao; sở hữu chéo; những yếu kém trong quản trị, điều hành của một số TCTD… Nhìn thẳng vào sự thật, chấp nhận thực tế nợ xấu lên đến 17,21% vào thời điểm tháng 9/2012, để từ đó NHNN vạch ra lộ trình kèm theo biện pháp mạnh với quyết tâm đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 3% trong năm 2015. Hàng loạt cuộc thanh tra, kiểm soát được cơ quan chức năng của NHNN tiến hành để nắm được “hồ sơ” tình trạng sức khỏe của các TCTD. Từ đó NHNN đưa ra biện pháp xử lý phù hợp cho từng trường hợp…
Ai đó có thể không đồng tình, gây sức ép với chuyện độc quyền vàng miếng; với siết mạnh kỷ luật tín dụng; với giải pháp mua NHTM với giá 0 đồng… nhưng thực tế đã chứng minh sự kiên định của NHNN trong thực hiện những giải pháp đó đã mang lại thành công như thế nào. Cho đến thời điểm này, trong ba trụ cột tái cấu trúc nền kinh tế (tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu DNNN và tái cơ cấu TCTD) thì quá trình tái cấu trúc của ngành Ngân hàng nhanh, hiệu quả và thành công hơn cả.
Sau 65 năm hình thành và phát triển ngành Ngân hàng, với việc tiếp nhận “ghế nóng” từ người tiền nhiệm, tân Thống đốc Lê Minh Hưng là Thống đốc thứ 14 của ngành Ngân hàng. Trong đó, ngành Ngân hàng vinh dự có 3 Phó thủ tướng kiêm Tổng giám đốc, Thống đốc NHNN qua các thời kỳ. Điều đó phần nào cho thấy vai trò quan trọng của hệ thống NH trong nền kinh tế, đồng thời cũng phản ánh trọng trách to lớn của ngành Ngân hàng đối với sự phát triển của đất nước. Và dù ở giai đoạn, hoàn cảnh phát triển nào ngành Ngân hàng cũng có dấu ấn cá nhân của Tư lệnh Ngành – những tấm gương về ý chí, quyết tâm, sự vững vàng, kiên định vượt qua thử thách; có sự đóng góp của lớp lớp thế hệ cán bộ, nhân viên đi trước...
Sau giai đoạn tái cơ cấu 2011 - 2015, cùng với giai đoạn phát triển mới của đất nước, ngành Ngân hàng sẽ bước vào thời kỳ của hội nhập, mở cửa sâu rộng với không ít khó khăn, thử thách. Song với những gì đã, đang làm được, chúng ta tự hào và vững tin tiến đến những mục tiêu cao hơn, xa hơn…
KHEN THƯỞNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CHO NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG 65 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN 1. Huân chương Sao vàng năm 2006; 2. Huân chương Hồ Chí Minh năm 1996; 3. Huân chương Hồ Chí Minh lần 2 năm 2011; 4. Huân chương Hồ Chí Minh lần 3 năm 2016; 5. Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2015; 6. Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân cho phòng B.29 (quỹ đặc biệt) năm 2009; 7. Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân cho Ban Tài chính đặc biệt (Bí số N.2683) năm 2009. 8. Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân cho Ban Ngân khố tín dụng R (Ngân tín R-C.32) năm 2014. Công tác thi đua khen thưởng đã trở thành động lực quan trọng, động viên toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành Ngân hàng. Chỉ tính riêng giai đoạn 2010 - 2015, từ các phong trào thi đua nhiều tập thể, cá nhân điển hình, tiêu biểu của Ngành đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng những phần thưởng cao quý như: 1 tập thể và 1 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; 1 tập thể được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động; 1 tập thể được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân; 4 tập thể được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất; 2 tập thể và 3 cá nhân được tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì; 4 tập thể và 5 cá nhân được tặng Huân chương Độc lập hạng Ba; 252 tập thể và 648 cá nhân được tặng Huân chương Lao động; hàng ngàn tập thể, cá nhân được khen thưởng các danh hiệu khác. |