Liên kết vùng “hữu danh, vô thực”
Lợi ích nhỏ che tương lai lớn
Theo nghiên cứu của Phòng Kinh tế phát triển vùng, thuộc Viện Kinh tế Việt Nam, thực trạng nhập các tỉnh thành vùng ở Việt Nam đã bỏ qua các nguyên tắc cơ bản của phân bổ liên kết vùng. Yếu tố sinh thái, lợi thế so sánh, văn hóa không được chú trọng khi phân bổ vùng mà chủ yếu dựa vào yếu tố địa hành chính và tương đồng trình độ phát triển.
Ngay cả khi đã hình thành nên các quy hoạch vùng, liên kết sau đó cũng lại có sự điều chỉnh. Ví như, trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã bổ sung thêm 5 tỉnh so với 4 tỉnh ban đầu, khiến phát triển vùng dần mờ nhạt và gần đồng nhất với vùng Đông Nam bộ.
Liên kết vùng miền cần đảm bảo phân cấp phân quyền cả về quản lý lẫn đầu tư. (Ảnh: PV)
Ý tưởng quy hoạch ngành trên địa bàn vùng bị phá vỡ bởi sự chồng chéo trong quản lý và quy hoạch. Bởi địa phương vẫn phụ thuộc nhiều vào ý kiến của Trung ương khi quyết định đầu tư, từ lập quy hoạch kế hoạch, dịch vụ xã hội cơ bản, đất đai, phê duyệt ngân sách đầu tư... đến FDI.
Thành phố Đà Nẵng xây dựng quy hoạch liên vùng Huế, Hội An và xa hơn với Quảng Ngãi trong chiến lược hành lang kinh tế Đông Tây. Dự án với sự hỗ trợ của Australia đã không được Chính phủ phê duyệt chính thức do Chính phủ đã có Quy hoạch vùng trọng điểm miền Trung, vùng Trung bộ. |
TS. Vũ Thành Tự Anh - Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright cho rằng, nguồn lực địa phương hạn chế cộng với cơ chế “xin - cho” tạo ra sự phân tán nguồn lực. Tỉnh nào cũng muốn có sân bay, cảng biển; tỉnh nào cũng chạy theo thành tích của riêng mình đã tạo ra sự phân chia nền kinh tế cả nước thành nhiều nền kinh tế nhỏ. “Cơ chế xin - cho vẫn đang diễn ra do kiểu xử lý quan hệ lợi ích giữa ngành và lãnh thổ chưa được xử lý minh bạch trong hàng thập kỷ qua”, ông Nguyễn Văn Huân – Trưởng phòng Kinh tế Phát triển Vùng nhấn mạnh.
Dẫn giải là câu chuyện ở Ninh Bình. Dựa trên bản Quy hoạch về Phát triển các ngành trên địa bàn, vùng, tỉnh Ninh Bình không có danh mục xây dựng Nhà máy xi măng tại khu vực ven vùng bảo tồn khu ngập nước Vân Long. Nhưng Bộ Xây dựng và Bộ Công Thương đã quyết định xây dựng tiếp một nhà máy xi măng ở khu vực này. Địa phương không được thông báo các dự án do các bộ, ngành triển khai trên địa bàn, tỉnh, cũng không có quyền giám sát và đánh giá các hoạt động của dự án, chỉ khi xảy ra sự cố, chính quyền địa phương phải cùng ban quản lý dự án lo xử lý, tăng gánh nặng quản lý xã hội cho địa phương.
Liên kết phải trở thành tư duy phát triển
Ông Nguyễn Văn Huân cho rằng, vấn đề nằm ở chỗ, liên kết vẫn chưa trở thành tư duy phát triển trong các địa phương, bộ, ngành cũng như quốc gia. Trong các kế hoạch trung hạn và dài hạn cấp địa phương cũng như cấp bộ, ngành và quốc gia rất ít đề cập đến các vấn đề liên kết phát triển, nhất là liên kết vùng và các địa phương liền kề nhau trong thực tiễn phân cấp đầu tư. Bản kế hoạch phát triển ngành nêu chung ngành toàn quốc, không phản ánh đặc trưng phát triển ngành theo vùng, lãnh thổ và lựa chọn vùng nào trọng điểm của quốc gia phát triển chuỗi ngành hàng, cụm ngành có lợi thế cạnh tranh.
Chung một dòng sông Hậu, trong khi thành phố Cần Thơ xây nên một tương lai cho khu đô thị mới hiện đại, thơ mộng, còn phía bên kia là khu công nghiệp Bình Minh với những ngành hóa chất, chế biến thủy sản ẩn chứa những nguy cơ ô nhiễm không khí, nguồn nước. |
Hướng dẫn lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang đánh đồng giữa kế hoạch phát triển các đô thị lớn với các địa phương, không thấy rõ được những đặc trưng riêng của các thành phố lớn như là cực tăng trưởng có sức lan tỏa và kinh tế đô thị hoàn toàn khác kinh tế nông thôn...
Bên cạnh đó, cơ sở liên kết dựa trên lợi thế so sánh và sự phân công phối hợp giữa các địa phương nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chưa được quan tâm. Các chính sách, các quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển đô thị và kế hoạch 5 năm của nhiều địa phương trong cả nước không đưa các yêu cầu của liên kết nội vùng; các ý tưởng liên kết liên vùng trong phát triển kinh tế, bảo vệ tài nguyên môi trường... Liên kết nội vùng vì thế mang tính hình thức, ít được thực thi.
Tính liên kết yếu này được TS. Hồ Kỳ Minh - Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng cho rằng xuất phát từ việc thiếu khung khổ thể chế quản trị vùng. Mặc dù đã có quyết định số 159/2007/QĐ-TTg ban hành Quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm. Tuy nhiên, quy chế phối hợp này ít có tác dụng vào trong thực tiễn liên kết vùng.
Đặc biệt, Ban chỉ đạo vùng mới chỉ dừng lại ở chức năng tham mưu, giám sát, chứ chưa được trao quyền có nguồn lực tài chính và nhân lực lực trong việc ra quyết định liên kết phát triển vùng. Bởi vậy, không khó hiểu khi vai trò của các ban chỉ đạo vùng trong việc thúc đẩy, tăng cường liên kết các tỉnh trong vùng và liên kết giữa các vùng khá mờ nhạt.
Doanh nghiệp là chủ công liên kết Liên kết phát triển giữa các địa phương trong điều kiện phân quyền, nâng cao năng lực quản trị phát triển địa phương là 2 mặt của một quá trình thực hiện đổi mới quản trị Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế hội nhập. Chính quyền địa phương và chính quyền Trung ương tạo ra môi trường đầu tư và các cơ chế chính sách phù hợp với các cam kết kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Chính lực lượng doanh nghiệp phát triển mạnh sẽ là chủ công trong liên kết phát triển trong các chuỗi giá trị hàng hóa và dịch vụ liên địa phương và liên vùng, tạo ra mạng sản xuất trong nước. Trưởng phòng kinh tế phát triển vùng - Viện Kinh tế Việt Nam, Nguyễn Văn Huân |
Hoàng Tiên