Mua, bán nợ và những khó khăn, vướng mắc trong việc khởi kiện thu hồi nợ: Nan giải bán - mua
Ảnh minh họa |
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7, Thông tư 19/2013/TT-NHNN (6/9/2013) của NHNN Việt Nam thì trong hoạt động mua, bán nợ giữa VAMC và TCTD, toàn bộ các quyền và lợi ích gắn liền với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm và biện pháp bảo đảm khác cho khoản nợ xấu được bên bán nợ giữ nguyên hiện trạng và chuyển giao cho bên mua nợ theo hợp đồng mua, bán nợ.
Vấn đề đặt ra là đối với các khoản nợ đã được bán cho VAMC mà TCTD đã tiến hành khởi kiện trước đó và Tòa án các cấp đã thụ lý giải quyết (đã thụ lý xác minh thu thập chứng cứ, đã hòa giải, đã xét xử sơ thẩm) thì xử lý như thế nào? Đây là vướng mắc của tất cả các TCTD hiện nay.
Theo quy định của pháp luật thì việc bán nợ giữa TCTD với VAMC là việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ theo Hợp đồng mua bán nợ mà không phải là việc kế thừa các quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng Dân sự, bởi lẽ Bộ luật tố tụng Dân sự quy định tại Điều 62 về việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng trong các trường hợp sau:
1, Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là CTCP, công ty TNHH, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng;
2, Trường hợp cơ quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức cấp trên của cơ quan, tổ chức đó hoặc đại diện cơ quan, tổ chức được giao tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng;
3, Trường hợp tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì cá nhân, tổ chức nào tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó tham gia tố tụng;
4, Trường hợp đương sự là tổ chức không phải là pháp nhân mà người đại diện hoặc người quản lý đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại diện để tham gia tố tụng, nếu tổ chức đó bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì cá nhân là thành viên tổ chức đó tham gia tố tụng.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng Dân sự không có quy định khác với quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng như đã nêu trên.
Mặc dù điểm m khoản 4 Điều 9 Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của TCTD Việt Nam có quy định VAMC được quyền: Được kế thừa quyền và nghĩa vụ chủ nợ của TCTD bán nợ, bao gồm cả quyền và nghĩa vụ tố tụng trong việc khởi kiện khách hàng vay vốn, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm tại Tòa án; kế thừa quyền và nghĩa vụ chủ nợ của TCTD bán nợ trong quá trình thi hành án.
Tuy nhiên, quy định tại Nghị định số 34 nêu trên chưa phù hợp với quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng Dân sự. Mặt khác, theo quy định về việc áp dụng văn bản quy định tại Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thì Bộ luật tố tụng Dân sự được ưu tiên áp dụng trước sau đó mới xem xét đến Nghị định số 34.
Vì vậy, Tòa án các cấp đa số không chấp nhận quy định tại Nghị định 34 để tiếp tục giải quyết vụ kiện mà TCTD đã khởi kiện trước khi bán nợ (VAMC kế thừa quyền của nguyên đơn tiếp tục tham gia tố tụng). Do vậy, thực tế các TCTD thường đề nghị Tòa án giải quyết theo một trong các hình thức sau:
1, TCTD đề nghị VAMC ban hành văn bản ủy quyền, sửa đổi lại Đơn khởi kiện, cung cấp hợp đồng mua bán nợ để đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết vụ kiện theo hướng đưa VAMC tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn trong vụ kiện (thay thế tư cách nguyên đơn của TCTD trước thời điểm mua bán nợ).
2, TCTD tiến hành rút đơn kiện để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ kiện và sau đó VAMC xem xét việc khởi kiện đối với khách hàng vay vốn, bên bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Thực tiễn giải quyết vụ kiện của Tòa án các cấp cho thấy Tòa án cũng không thống nhất trong việc áp dụng quy định của pháp luật để xử lý đối với các trường hợp TCTD đang khởi kiện sau đó bán nợ cho VAMC cụ thể:
- Có Tòa án chấp nhận đề nghị của VAMC về việc công ty này bổ sung hợp đồng mua bán nợ, văn bản ủy quyền tham gia tố tụng và tiến hành sửa đổi đơn khởi kiện với nguyên đơn mới là VAMC. Tòa án vẫn giải quyết theo thủ tục chung đối với vụ kiện, buộc khách hàng vay vốn trả nợ cho VAMC, phát mại tài sản bảo đảm cho khoản vay để thu hồi nợ.
- Có nhiều Tòa án không chấp nhận việc VAMC bổ sung tài liệu nêu trên để tiếp tục giải quyết vụ kiện mà Tòa án yêu cầu TCTD rút đơn kiện để Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ kiện. Việc khởi kiện lại đối với khách hàng vay vốn, bên bảo đảm tùy thuộc vào VAMC.
Do Tòa án các cấp có cách giải quyết không thống nhất gây bức xúc, làm nhiều TCTD lung túng trong việc khởi kiện. Đối với các khách hàng vay vốn, bên bảo đảm mà TCTD đã khởi kiện và Tòa án các cấp đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ kiện như tiến hành hòa giải, xét xử sơ thẩm, nếu phải rút đơn khởi kiện thì TCTD sẽ gây lãng phí về thời gian và chi phí của các TCTD.
Bên cạnh đó, việc khởi kiện lại rất khó khăn nhất là đối với các khách hàng vay vốn, bên bảo đảm lợi dụng việc Tòa án đình chỉ giải quyết vụ kiện đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, không thông báo địa chỉ cho TCTD, VAMC vì theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2012 và Công văn số 109/KHXX-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện hoặc nếu đã thụ lý thì sẽ đình chỉ việc giải quyết vụ kiện trả lại đơn khởi kiện với lý do người khởi kiện không biết địa chỉ của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Kỳ 2: Mua, bán nợ và những khó khăn, vướng mắc trong việc khởi kiện thu hồi nợ: Và chuyện xử lý