Ngành du lịch: Phát triển nhanh nhưng cần xanh và bền vững
Du lịch trực tuyến: Bổ sung nhân lực chất lượng cao | |
Du lịch Đà Nẵng: Kịch bản định sẵn hay “chuyện thần kỳ”? | |
Quảng Bình tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển |
Dấu hiệu của thiếu bền vững
Vấn đề rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa, túi nylon trở nên đặc biệt nóng trong thời gian gần đây. Theo số liệu của Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp quốc (FAO), ước tính có 1,8 triệu tấn chất thải nhựa được tạo ra ở Việt Nam mỗi năm, và Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia hàng đầu phải chịu trách nhiệm cho khoảng 13 triệu tấn nhựa được thải ra đại dương/năm. Thực tế, hình ảnh những khu du lịch, bãi biển tràn ngập bởi rác thải nhựa, túi nylon đã trở nên rất phổ biến. Và tất nhiên, góp một phần quan trọng trong đó là từ các hoạt động du lịch.
Vấn đề rác thải đang ảnh hưởng không nhỏ đến ngành du lịch |
Nhưng rác thải chỉ là một trong những thách thức hiện hữu mà ai cũng có thể nhìn thấy về tác động của du lịch đến môi trường. Theo xếp hạng về năng lực cạnh tranh ngành du lịch năm 2017 của WEF, Việt Nam có thứ hạng thấp hơn mức bình quân của các quốc gia đang phát triển ở Đông Nam Á (vốn đã thuộc nhóm có kết quả kém nhất) trong hầu hết mọi nội dung đánh giá chỉ số bền vững môi trường. Yếu kém của Việt Nam đặc biệt nổi bật trong nội dung về ô nhiễm không khí (ô nhiễm hạt nhỏ), xử lý nước thải và mức độ tuân thủ chặt chẽ các quy định môi trường.
“Khi số lượng du khách tiếp tục đổ về ngày càng nhiều, áp lực với ba điểm yếu trên sẽ chỉ tăng lên. Tương tự là những nguy cơ quan trọng khác về môi trường chưa được thể hiện trong chỉ số của WEF, như mức độ tích lũy chất thải nhựa đang ở mức cao nhất thế giới tại Việt Nam (phản ánh quản lý yếu kém đối với loại chất thải này), gây nguy cơ lớn cho hệ sinh thái biển và đất liền”, chuyên đề đặc biệt về phát triển du lịch tại Việt Nam trong báo cáo “Điểm lại” của WB công bố mới đây, nhận định.
Trước đó, báo cáo phát triển bền vững ngành du lịch do Nhóm công tác du lịch trình bày tại Diễn đàn VBF giữa kỳ 2019 cũng nhấn mạnh: “Sử dụng đồ nhựa lãng phí, quá sức tải của môi trường là một trong những vấn đề nghiêm trọng của Việt Nam hiện nay. Du khách và ngành du lịch là nguyên nhân lớn gây ra chất thải nhựa (mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ trong quy mô tổng thể của vấn đề). Ngành du lịch đồng thời bị ảnh hưởng bởi tình trạng chất thải nhựa tràn lan tại các bãi biển và trong môi trường tự nhiên”.
Bên cạnh các áp lực về môi trường, các nguy cơ cũng ngày càng tăng lên do tình trạng phát triển du lịch quá mức, trong đó liên quan đến rủi ro quá tải về hạ tầng dịch vụ và du lịch; khan hiếm nhân lực ngành du lịch khi nguồn cung lao động ngành du lịch ngày càng không có khả năng bắt kịp với nhu cầu; đe dọa đến tính bền vững của các điểm du lịch văn hóa, di sản và các danh lam thắng cảnh thiên nhiên quan trọng do tăng trưởng khách du lịch tràn lan; thiếu các sản phẩm đa dạng cũng như điểm đến du lịch gây áp lực quá tải cho những điểm đến phổ biến nhất; chưa làm tốt và hiệu quả trong quảng bá và xây dựng các thương hiệu du lịch, điểm đến…
Điểm tới hạn và các giải pháp
Ngành du lịch luôn là cỗ máy quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thịnh vượng chung. Trong suốt thập kỷ qua, Việt Nam đã và đang trải qua giai đoạn bùng phát về du lịch, trở thành một trong những điểm đến mới nổi hàng đầu ở Đông Nam Á. Thực tế, du lịch đã đạt tăng trưởng kỷ lục cả về lượt khách quốc tế và trong nước trong ba năm qua. Số lượt khách nước ngoài đến với Việt Nam mỗi năm đạt trên 15 triệu, so với chỉ 4 triệu ở thập kỷ trước. Bên cạnh đó là khoảng 80 triệu lượt khách du lịch trong nước, con số tăng gấp bốn lần trong 10 năm qua.
Đến năm 2017, ngành du lịch trực tiếp đóng góp đến 8% GDP của Việt Nam (chưa kể đóng góp bổ sung nhờ hiệu ứng lan tỏa gián tiếp) và là nguồn xuất khẩu dịch vụ đơn lẻ lớn nhất của quốc gia. Chính vì vậy, duy trì tăng trưởng của ngành này được Chính phủ coi là ưu tiên chiến lược và là yếu tố quan trọng đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Mặc dù vậy, những tác động ngược do tăng trưởng nhanh – như đề cập ở trên – cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết để ngành du lịch phát triển theo hướng xanh và bền vững hơn. “Quá trình tăng trưởng nhanh đã đưa ngành này đến điểm tới hạn về phát triển. Nghĩa là nếu tiếp tục tăng trưởng mà không quản lý tốt, điều đó sẽ dẫn đến những tác động bất lợi về kinh tế, xã hội và môi trường”, báo cáo Điểm lại của WB cho biết. Số lượt du khách tăng nhanh chủ yếu là do chuyển dịch sang nhóm du khách chi tiêu thấp, lưu trú ngắn ngày hơn do tiếp tục chú trọng vào các sản phẩm du lịch ở thị trường đại trà và tăng tập trung du khách vào các điểm đến quen thuộc hiện đã quá tải.
“Điều đó khiến cho Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương về năng lực kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực ngành du lịch và bền vững về môi trường. Nếu không quan tâm, mô hình tăng trưởng du lịch kiểu đó sẽ gây rủi ro là tác động kinh tế giảm dần, tài sản du lịch văn hóa và thiên nhiên bị xuống cấp, sự ủng hộ của cộng đồng địa phương với du lịch bị xói mòn với quan niệm rằng du lịch không đem lại đủ lợi ích” chuyên gia Brian Mtonya của WB cảnh báo.
Để đảm bảo bền vững dài hạn cho ngành, cần phải có những lựa chọn chiến lược về nhịp độ và cơ cấu mong muốn, cân đối về tăng trưởng tương lai theo địa bàn địa lý. Theo chuyên gia Brian Mtonya, những ưu tiên cần tập trung trong thời gian tới bao gồm: Tăng cường phối hợp về quy hoạch điểm đến và phát triển sản phẩm; Đa dạng hóa sản phẩm du lịch và thị trường nguồn khách; Phát triển kỹ năng của lực lượng lao động ngành du lịch; Tăng cường kết nối các chuỗi giá trị du lịch địa phương; Cải thiện về quản lý luồng khách; Nâng cao chất lượng và năng lực hạ tầng ở điểm đến; Bảo vệ tài sản văn hóa và môi trường. “Để triển khai được những biện pháp trên đòi hỏi phải có nỗ lực phối hợp của các bên cả ở khu vực công và tư nhân”, chuyên gia này nói.
Nhóm công tác du lịch của VBF thì cho rằng, cần áp dụng cách tiếp cận có hệ thống hơn để đảm bảo phát triển bền vững trong du lịch. Trong đó, cần có các chính sách giúp tăng cường năng lực của các bên liên quan trong vấn đề phát triển du lịch có trách nhiệm và các ưu đãi để khuyến khích cam kết và hành động có trách nhiệm. Bên cạnh đó để thúc đẩy quảng bá và đa dạng hóa điểm đến, cần phân bố hợp lý hơn cho quỹ xúc tiến du lịch quốc gia từ ngân sách nhà nước và tạo điều kiện phát triển quan hệ đối tác công-tư để quản lý và vận hành hiệu quả quỹ xúc tiến du lịch.
Đồng thời, cần tập trung nỗ lực quảng bá vào các thị trường mục tiêu với số lượng khách cao và ổn định, có xu hướng lưu trú trong thời gian dài, và chi tiêu nhiều hơn. Ngoài ra cần tăng cường quảng bá hình ảnh Việt Nam nhưng tiết kiệm chi phí bằng cách sử dụng các ứng dụng kỹ thuật số, đặc biệt trên điện thoại thông minh và các kênh marketing mạng xã hội để xây dựng hình ảnh chuyên nghiệp cũng như cung cấp thông tin toàn diện và hữu ích cho khách du lịch; nghiên cứu mở các trung tâm xúc tiến và thông tin du lịch trên toàn cầu (có thể sử dụng công nghệ ảo), sau khi các hạn chế về thị thực được cải thiện để giới thiệu Việt Nam ra thế giới.