Nhạc giao hưởng loay hoay tìm khán giả?
Sau mười mấy năm khổ luyện, thật khó khăn để các em tìm được một công việc đúng nghề, đủ sống để theo đuổi đam mê nghệ thuật.Hơn nữa, khán thính giả Việt Nam ta vẫn chưa có văn hóa nghe nhạc thính phòng, nhạc hàn lâm, nên đã đành là tâm huyết với nghề nhưng các em vẫn phải xoay đủ nghề để kiếm sống.
Tôi có một người bạn học kèn Accordeon từ năm lên 8 tuổi tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Việt Nam), học xong sơ cấp, lên trung cấp, đại học rồi làm tiến sĩ ở Nga, tổng cộng thời gian học của anh đã ngót gần 30 năm trời đằng đẵng. Trở về nước, anh quay lại trường cũ làm công tác đào tạo âm nhạc, nhưng có lúc trà dư tửu hậu anh vẫn không khỏi băn khoăn bởi công việc hiện tại của mình.
Biểu diễn trong dàn nhạc giao hưởng nhưng chỉ nhận "lương còm" (ảnh minh họa)
Những người như anh, tâm huyết cả đời theo một chuyên ngành âm nhạc, những tưởng khi trở về nước cống hiến, thì môn kèn của anh, hiện tại số học sinh theo học chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Đặc thù trường đào tạo nghệ thuật âm nhạc chuyên nghiệp là học sinh được đào tạo từ trung cấp đến trên đại học; và giờ lên lớp chuyên ngành là một thầy, một trò; tuy nhiên, thực tế là, cho dù các giảng viên đã dốc tâm huyết và tài năng truyền đạt cho trò nhưng những tài năng dường như càng ngày càng hiếm hoi, nhất là trong chuyên ngành khí nhạc.
Có nhiều lý do khiến việc đào tạo đó không được như trước. Phần lớn, các em ở tỉnh xa, lên Hà Nội học là phải xa nhà, phải tự lập ngay từ khi còn rất bé, đó là mối lo ngại hàng đầu của hầu hết các bậc cha mẹ. Chính vì thế, họ tự bằng lòng với việc cho con mình theo học tại một nhà văn hóa của quận, huyện, địa phương với một trình độ “thường thường bậc trung” hơn là để con nhỏ “tầm sư học đạo” mà phải xa nhà.
Có những em có thể đi xa trên con đường âm nhạc thì phải bỏ dở giữa chừng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không theo học được. Bởi vì, học khí nhạc, như học Piano chẳng hạn, các em tự phải trang bị đàn, trong quá trình học phải lo đủ các khoản tiền, như học phí, ăn ở, đi lại… như vậy khoản tiền bỏ ra là khá lớn đối với con em ở các vùng xa.
Một thực tế hiển nhiên, dường như là đối với bất cứ ai, đó là, trong thời cơ chế thị trường này, cuộc sống không khoan nhượng và, sau mười mấy năm khổ luyện, thật khó khăn để các em tìm được một công việc đúng nghề, đủ sống để theo đuổi đam mê nghệ thuật.
Những dàn nhạc giao hưởng cũng chỉ nhận một số người nhất định. Hơn nữa, khán thính giả Việt Nam ta vẫn chưa có văn hóa nghe nhạc thính phòng, nhạc hàn lâm, nên đã đành là tâm huyết với nghề nhưng các em vẫn phải xoay đủ nghề để kiếm sống.
Trong khi đó, có những ca sĩ của công chúng trẻ tuổi, chẳng học trường nhạc một ngày nào nhưng với công nghệ bầu sô, PR… họ đã nghiễm nhiên trở thành “sao” một cách chóng vánh… Hiện nay, ngay cả NXB Âm nhạc, là bệ đỡ cho các tác phẩm âm nhạc ra đời cũng không xuất bản những đĩa nhạc cổ điển, những tác phẩm giao hưởng Việt Nam, bởi vì, như nhạc sĩ Lương Dũng, Giám đốc NXB cho biết, lượng đĩa bán ra không đủ thu hồi vốn để lo cho đời sống của cán bộ của NXB.
Như vậy, để có một sự phổ cập, có lẽ phải có một cách đầu tư lâu dài. Chẳng hạn như đưa chương trình nhạc giao hưởng vào nhà trường phổ thông để ít nhất nhân dân có những khái niệm cơ bản về nhạc giao hưởng.
Ở phương Tây, dòng nhạc hàn lâm này vốn xuất phát từ ca đoàn của nhà thờ. Một đứa trẻ khi đi lễ nhà thờ là nó đã có thứ âm nhạc bác học này ngấm vào người rồi, chưa nói đến việc chúng tiếp tục được học trong nhà trường như một môn học bắt buộc, phương pháp tiếp cận bắt đầu từ hệ thống lý thuyết phổ cập âm nhạc.
Chính vì xuất phát điểm có căn bản nên người phương Tây nghe nhạc giao hưởng như một món ăn tinh thần của cuộc sống đời thường, họ cảm nhận được những cung bậc trong dòng nhạc đó. Riêng với các nước châu Á phần lớn người dân theo đạo Phật, nghe nhạc giao hưởng như là một sự “đi tắt đón đầu”, chính vì hệ tư tưởng khác nhau nên sự tiếp nhận cũng khác nhau.
Tuy nhiên, đêm hòa nhạc Hennssy hàng năm tại Nhà hát Lớn Hà Nội, giá vé ở chợ đen lên tới hàng triệu đồng, chứng tỏ khán giả nhạc giao hưởng là có, họ vẫn hưởng ứng một cách đầy trân trọng dòng nhạc hàn lâm này.
Chính vì thế, chúng ta phải đặt ra một vấn đề, phải chăng chất lượng nghệ thuật dàn nhạc trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người nghe, cho dù lượng khán giả này chưa phải là nhiều.
Nhật Tuấn