Nhớ tết đầu tiên trên đất Sài thành
Hồi chiến tranh chống Mỹ, tôi vào đường 9 cùng một đoàn của Hà Nội do ông Trần Duy Hưng lúc đó là Chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội dẫn đầu. Buổi tối, khi nghỉ ở một binh trạm quân đội của Quảng Bình, tôi mượn điện thoại của một vị lãnh đạo, gọi cho nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ lúc ấy ở Hội Văn Nghệ Quảng Bình, cũng gần gần, hy vọng Dạ và Lê Thị Mây sẽ ghé thăm. Quả nhiên, đã khuya khuya, hai bạn rủ nhau đi bộ tới. Chúng tôi ôm lấy nhau, rơi nước mắt. Và ba chị em trò chuyện, mơ ước lớn nhất của cả ba chúng tôi lúc ấy, là khi nào thống nhất đất nước, nếu còn sống, nhất định chúng tôi sẽ vào thăm Sài Gòn. Dạo đó, bom đạn hàng ngày. Chuyến đi của chúng tôi đầy nước mắt. Cuộc gặp nào cũng có thể là cuộc gặp cuối cùng!
Sau giải phóng Sài Gòn ít lâu, đường sắt còn chưa có, dịp gần Tết năm 1976, tôi đã xin Hội Nhà văn Việt Nam và báo Hà Nội mới - nơi tôi làm việc, vào Sài Gòn ba tháng để vừa viết báo vừa sáng tác. Và phương tiện duy nhất để đi, là tàu thủy.
Và đến Sài Gòn, bắt gặp một thành phố lộng lẫy, sôi động với các cô gái môi son má phấn, quần ống loe, váy ngắn. Rồi những tòa cao ốc lộng lẫy, những ô tô, xe máy sáng bóng, rồi những lớp học bình dân, những chàng bộ đội, công an giản dị, các em bé vai quàng khăn đỏ hát quốc ca trong sân trường... Tất cả đều khiến tôi rưng rưng cảm động và vô cùng thương nhớ đứa em trai Phan Hữu Khải của mình đã hy sinh trước ngày 30/4/1975 ít lâu.
Tôi mang giấy giới thiệu của Hội Nhà văn Việt Nam - do nhà thơ Tế Hanh ký, nộp cho Hội Văn nghệ giải phóng Sài Gòn - lúc đó chưa đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh và được các bạn bố trí cho ở trụ sở của Hội, lúc ấy ở 81 Trần Quốc Thảo. Đây là một trụ sở rộng, có hội trường, vườn cây và hoa, nhà ăn và khu bếp với một dãy nhà cấp bốn - nơi ở của các nhân viên phục vụ như lái xe, bảo vệ, nấu ăn, dọn dẹp... Tôi được ở một phòng trong dãy nhà đó, xinh xắn và sạch sẽ. Một buổi tối, tôi đang ngồi đọc mấy tờ báo của Sài Gòn thì nghe tiếng gõ cửa. Một bác chừng hơn 50 chút, ngó vào và nói:
- Cháu ơi, các cô bác đến họp mà không có nước uống. Cháu đun và pha giúp chúng tôi ấm trà nhé.
Tôi ngẩng lên, cười:
- Mời bác vào căn phòng gần cuối, nói chị Cúc đun giúp, vì đó không phải là việc của cháu.
Bác ấy trợn mắt:
- Tôi đã có lời nhờ mà cô không giúp sao?
Tôi vẫn mỉm cười:
- Cháu không biết ấm chén chị ấy để đâu bác ạ.
- Cô có thể cho biết tên không?
Tôi mỉm cười:
- Tên rất lười, Nhàn bác ạ.
- Được, để mai tôi sẽ phản ánh lại với Chủ tịch Hội.
Nói rồi, vị ấy bỏ đi, vẻ tức giận. Tôi nhìn lại mình: suốt ngày mặt mộc, áo không là lại cũ, quần đen, tóc tết bím như một cô gái quê mùa. Ở cái thành phố lộng lẫy này, ở tuổi tôi lúc đó - hơn 30 chút, chắc chắn không có cô nàng nào lại giản đơn như vậy. Có vẻ như mình có tướng đun nước quét nhà rồi!...
Nhưng sáng hôm sau, khi tôi rời nhà đến nhà bạn gái Bích Tiên thì bác hôm qua đến, gặp tôi ở cổng, ngăn lại, vẻ rụt rè và mỉm cười:
- Tôi phải đến sớm để xin lỗi chị, vì tôi hỏi mọi người mới biết chị là nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn vừa từ Hà Nội vào. Tôi đã nghe bài Hương thầm của chị phát trên đài nhiều lần. Mong chị bỏ qua cho.
Tôi lúc ấy chắc cũng đỏ mặt, lúng túng: "Không có gì ạ. Ngoài Hà Nội tôi cũng là chân đun nước ở phòng làm việc của ban văn xã, có sao đâu ạ".
Và, lòng cũng vui vui, tôi đến nhà bạn gái Bích Tiên, vợ của nhà phê bình văn học Mai Quốc Liên. Anh chị đã từ Hà Nội dọn vào Sài Gòn ít ngày sau khi thống nhất nước nhà. Chị rất chiều tôi, nào dẫn đi chơi, giới thiệu tôi với người này người khác, nào dạy tôi gọi má với các bà già, khi ai gọi thì dạ... Rồi dắt tôi đi ăn bún mắm, cá kèo, hột vịt lộn. Và chị nói sẽ bố trí để tôi gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - người cùng ở Huế với chị nhiều năm.
Khi tôi đến gia đình Bích Tiên, lúc đó ở 43 Phan Kế Bính, đã thấy nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đang ôm đàn và hát: "Con chim ở đậu cành tre - Con cá ở đậu trong khe nước nguồn - Tôi nay ở trọ trần gian - Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời... Sương mai ở đậu miền xa - Cơn gió ở trọ bao la đất trời - Tim em ở trọ là tôi - Mai kia dù có xa xôi cũng gần - Trăm năm ở đậu ngàn năm - Đêm tối ở trọ xunh quanh nỗi buồn...". Bích Tiên làm hiệu cho tôi ngồi im nghe, còn Trịnh Công Sơn thì ngẩng lên gật đầu chào và vẫn hát say sưa. Anh không có vẻ muốn trò chuyện mà chỉ cười nhẹ: "Tôi hát cho nhà thơ Hà Nội nghe vậy là được rồi nha. Giờ tôi phải đi đã"... Bích Tiên tiễn chàng ra cửa và khi vào cũng cười: "Anh ấy đến chờ gặp mày, mà mày lại còn đến muộn! Lão ấy hát cho mà nghe là tuyệt vời rồi đó!". Lỗi là tại cái ông hôm qua tưởng tôi là người đun nước quét nhà cho Hội, sáng nay đã làm tôi muộn đến mười lăm phút (!).
Ngày trước Tết, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đưa tôi đi chơi bằng xe máy lên cầu Bình Triệu ở ngã ba Thủ Đức - Bình Dương. Anh cười:
- Chắc từ hôm vào đây cô chưa ra ngoại thành Sài Gòn, đúng không?
Và anh đưa tôi bước lên một nhà sàn gỗ đánh xi nổi trên mặt nước thoáng rộng trên sông, kiểu nhà thủy tạ. Thấy tôi thích thú cúi nhìn mặt nước xao động, một cậu bé nhân viên nhà hàng chạy tới, tay cầm mẩu bánh mì bẻ vụn rắc xuống sông. Lập tức cá quẫy cả đàn thi nhau đớp bánh. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đến bên, cũng cúi xuống và giải thích: "Đây là cá bông lau cô ạ". Rồi cậu bé nhấc cần, kéo lên một con cá màu xám bạc, mình thon chắc như cá chuối.
Khi chúng tôi ngồi vào bàn, nhà văn giải thích: Cô đã ăn món tôm nướng muối bao giờ chưa? Món ăn tôi đã viết trong sách, mà chắc cô... chưa đọc? Còn thịt bò nướng ăn với bánh mì cũng là món miền Nam. Cô thích món gì nữa cứ bảo, ta sẽ gọi dần cho nóng... Hai anh em vừa ăn vừa trò chuyện. Nhưng tôi nghe là chính, đến hơn 19h mới đứng lên. Nguyễn Quang Sáng đưa tôi về, đi loanh quanh cho tôi ngó Sài Gòn buổi tối và chỉ các tên bảng hiệu rất ngộ nghĩnh: Bánh ngọt MỸ... tho - chữ tho viết nhỏ xíu phía dưới; quán ÔNG ĐẬU rồi ĐỖ; quán SAY RỒI LẠI TỈNH; Quán Ô KÌA BIA NGON; quán "NHẬU LAI RAI"...
Một Sài Gòn lãng tử. Sôi động. Thoải mái đúng nghĩa!
Và tôi vẫn còn nhớ như in, năm ấy, trước giao thừa, nhóm phóng viên thường trú báo Nhân Dân cho tôi và Lê Minh Khuê lên ô tô cơ quan, đi lòng vòng quanh các phố. Trước cửa nhiều ngôi nhà có bàn bày cỗ rất to: Xôi, gà, dưa hấu, mứt, rượu, bánh tét, mâm ngũ CẦU VỪA ĐỦ SÀI gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài... bên cạnh là bánh pháo đỏ hoặc pháo dây dài hàng mét. Đến giao thừa, chúng tôi trở lại trụ sở báo. Các vị nhớ rừng mắc lên một chiếc võng bên cạnh bàn tiệc cũng đầy đủ bánh chưng, dưa hành, xôi gà, rượu mứt và một bánh pháo đỏ tươi. Đúng giao thừa, đội trực trong thành phố có nơi cao hứng chĩa súng lên trời bắn hàng loạt đạn nổ ran cùng tiếng pháo mọi nhà thi nhau đốt.
Đón giao thừa đầu tiên trên đất Sài Gòn, với tôi, thật tươi vui, náo động và đầy kỷ niệm...