Nợ toàn cầu tăng, đẩy rủi ro cao hơn
Mặc dù đây là mức tăng hàng năm nhỏ nhất của tỷ lệ nợ toàn cầu kể từ năm 2004, nhưng nhìn kỹ hơn vào dữ liệu theo từng quốc gia cho thấy, tính dễ tổn thương đang gia tăng, cho thấy nhiều quốc gia có thể không sẵn sàng cho sự suy thoái tiếp theo.
Ở các nền kinh tế tiên tiến, tỷ lệ nợ trung bình giảm, nhưng không có dấu hiệu rõ ràng về một nỗ lực đáng kể để giảm nợ. Trong khi ở các nền kinh tế thị trường mới nổi và các nước đang phát triển có thu nhập thấp, tỷ lệ nợ trung bình tăng hơn nữa. Đáng chú ý, tỷ lệ nợ của Trung Quốc đã đạt tới 258% GDP vào cuối năm 2018, giống như Hoa Kỳ và gần mức trung bình của các nền kinh tế tiên tiến, là 265%.
Nhìn vào xu hướng chung, có hai nhóm riêng biệt. Tại các nền kinh tế tiên tiến, tỷ lệ nợ của cả khu vực công và tư đã giảm ở phần lớn các quốc gia trong năm 2018. Tuy nhiên, những thay đổi trong tổng tỷ lệ nợ trung bình là tương đối nhỏ, giảm 0,9% GDP. Trong khi với các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển có thu nhập thấp, xu hướng tăng trong tổng tỷ lệ nợ không có dấu hiệu tạm dừng hoặc chậm lại, với sự gia tăng chính đến từ nợ công.
Nhìn chung ở hầu hết các quốc gia, tỷ lệ nợ công đang ở mức rất cao. Ngoại trừ Mỹ và Nhật Bản, các nền kinh tế tiên tiến đã bắt đầu giảm một số khoản nợ tích lũy sau hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mặc dù vậy, tỷ lệ nợ công cao hơn so với trước năm 2008 ở gần 90% các nền kinh tế tiên tiến, thậm chí một phần ba trong số đó, tỷ lệ nợ công cao hơn 30 điểm phần trăm so với mức trước khủng hoảng.
Ở các thị trường mới nổi, tỷ lệ nợ công đang ở trên mức 70% ở gần một phần năm các quốc gia. Trong khi đó, nợ công tăng liên tục ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp nói chung, với 2/5 trong số đó trên toàn thế giới có nguy cơ cao, hoặc bị khủng hoảng nợ.
Ảnh minh họa |
Tuy nhiên diễn biến nợ của khu vực tư nhân, đặc biệt là nợ của công ty, có sự khác biệt giữa các quốc gia. Ở các nền kinh tế tiên tiến, tỷ lệ nợ doanh nghiệp đã tăng dần kể từ năm 2010 và hiện tại nó ở cùng mức với năm 2008, mức cao nhất trước đó. Nhưng có sự khác biệt lớn, nếu như tại Tây Ban Nha và Anh, khu vực doanh nghiệp đã giảm được khoản nợ khổng lồ kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu; thì tại Mỹ, nợ doanh nghiệp tăng liên tục kể từ năm 2011 và đạt mức cao kỷ lục vào cuối năm 2018. Trong khi đó, tỷ lệ nợ hộ gia đình đã giảm ở các nền kinh tế tiên tiến so với năm 2008, với sự sụt giảm mạnh ở Mỹ và Anh, song tăng ở một phần ba các nền kinh tế tiên tiến.
Còn tại các thị trường mới nổi trừ Trung Quốc, tỷ lệ nợ doanh nghiệp trung bình đã giảm kể từ năm 2015 và hiện cao hơn 4% so với năm 2009, nhưng các quốc gia này đã không tránh khỏi tình trạng giảm chất lượng tín dụng doanh nghiệp. Trong khi tỷ lệ nợ hộ gia đình đã tăng đều đặn, nhưng nó vẫn chỉ bằng một nửa so với các nền kinh tế tiên tiến.
Với Trung Quốc, nỗ lực kiềm chế nợ doanh nghiệp được tiếp tục trong năm 2018, khiến nợ doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên nợ có chủ quyền tăng đáng kể và nợ hộ gia đình cũng tiếp tục tăng trong năm 2018.
Theo IMF, không giống như trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, rủi ro không chỉ tập trung ở khu vực tư nhân mà cả khu vực công. Đáng chú ý mức nợ tư nhân quá mức làm tăng tính dễ bị tổn thương. Thậm chí việc giảm nợ trong khu vực tư nhân cũng có thể trở thành gánh nặng cho khu vực công nếu sản lượng giảm dẫn đến doanh thu thấp hơn hoặc vỡ nợ của công ty gây ra tổn thất và hạn chế cho vay của các ngân hàng. “Do đó, điều quan trọng là phải giảm các lỗ hổng như vậy trước cú sốc bất lợi tiếp theo”, IMF khuyến nghị.