Nỗi lo sản xuất công nghiệp
Cần sớm có "cây gậy" cho phát triển công nghiệp | |
Phát triển công nghiệp ô tô: Cần bắt nhịp xu hướng số hóa và xanh hóa | |
Tăng cường kết nối trong công nghiệp hỗ trợ |
Hiệu ứng mở cửa trở lại dần phai nhạt
Nền kinh tế năm 2022 phục hồi nhanh và ấn tượng, đặc biệt trong 9 tháng đầu năm. Tuy nhiên theo bà Phí Thị Hương Nga, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng, Tổng cục Thống kê (TCTK), những yếu tố tạo nên sự hồi phục đang giảm dần từ quý IV/2022 và có thể kéo dài trong năm 2023. “Những khó khăn bên ngoài ngày càng rõ ràng: kinh tế toàn cầu suy giảm, lạm phát tăng cao; chi phí đầu vào tăng, lãi suất tăng, cầu tiêu dùng suy giảm… Vì vậy, ngành công nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo xu hướng chung, đặc biệt là ngành chế biến chế tạo”, bà Nga cho biết.
Thực tế, sản xuất công nghiệp đã có bước phát triển với tốc độ cao, với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ghi nhận mức tăng trưởng cao liên tiếp từ tháng 2 đến tháng 9/2022 (mức tăng thấp nhất là 9,1%, cao nhất lên tới 13,3% so với cùng kỳ) song bắt đầu giảm mạnh và liên tục trong quý IV: Tháng 10 tăng 5,5%; tháng 11 tăng 3,5%; tháng 12 chỉ còn tăng 0,2% so với cùng kỳ. Rất nhiều ngành công nghiệp trọng điểm ghi nhận sự sụt giảm mạnh trong quý IV/2022 so với 9 tháng đầu năm: Sản xuất thiết bị điện giảm 25,1%; sản xuất trang phục giảm 22,1%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 16,6%; sản xuất da và các sản phẩm từ da giảm 14%; in, sao chép bản ghi giảm 12,5%; sản xuất các sản phẩm từ cao su, plastic giảm 10,4%…
Diễn biến chỉ số giá sản xuất so với năm trước giai đoạn 2018-2022 (%) |
Mặc dù IIP cả năm 2022 vẫn có mức tăng tích cực (tăng 7,8%), nhưng đóng góp chính là nhờ ba quý đầu năm (quý I tăng 6,8%, quý II tăng 9,8%, quý III tăng 10,9%), còn riêng quý IV chỉ còn tăng 3%, qua đó kéo giảm chỉ số chung cả năm. Báo cáo Vietnam At A Glance của HSBC công bố đầu tháng này nhận định, việc sản lượng sản xuất quý IV giảm mạnh tốc độ tăng như vậy chính là hình ảnh phản chiếu của tình hình nhu cầu bên ngoài đang yếu đi. Yếu tố này, kết hợp với hiệu ứng mở cửa trở lại dần phai nhạt khiến HSBC kỳ vọng GDP của Việt Nam năm nay sẽ chỉ tăng trưởng ở mức 5,8%.
Với ngành sản xuất, nhu cầu bên ngoài yếu đi không chỉ khiến xuất khẩu nhanh chóng giảm tốc (quý IV giảm 6,1% trong khi 9 tháng tăng 17,5% so với cùng kỳ nên xuất khẩu cả năm chỉ còn tăng 10,6%; riêng tháng 12 giảm tới 14% so với cùng kỳ) mà nhập khẩu cũng giảm mạnh (quý IV giảm 5,8% so với quý III/2022 và giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước; riêng tháng 12 giảm tới 8,1%). Trong cơ cấu hàng nhập khẩu năm 2022, tương tự như các năm trước đây, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng đến 93,5%. Vì vậy việc nhập khẩu giảm là một chỉ dấu không mấy tích cực cho sản xuất công nghiệp trong năm nay. Theo HSBC, điều này có thể được hiểu là Việt Nam đang ở thế “đứng mũi chịu sào” khi bị ảnh hưởng từ chu kỳ công nghệ toàn cầu đang “hạ nhiệt” (với bản chất hoạt động sản xuất hàng điện tử nhập khẩu nhiều nguyên liệu đầu vào). “Triển vọng sản xuất của Việt Nam đang bắt đầu nhìn thấy thách thức với bằng chứng là chỉ số PMI tiếp tục lao dốc xuống 46,4 trong tháng 12, mức thấp nhất trong vòng 1,5 năm qua”, HSBC cảnh báo.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2022 của TCTK cũng cho thấy xu hướng kém lạc quan khi số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ khó khăn hơn trong quý I/2023 (so với quý IV/2022) gần tương đương với số doanh nghiệp dự báo sẽ tốt hơn (lần lượt là 31,2% và 31,5%); số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất giảm cũng gần tương đương với số dự báo tăng (30,1% và 31,4%). Đáng chú ý về đơn đặt hàng, trong khi chỉ có 30% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng thì có tới 39,4% doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm trong quý I/2023. Với đơn đặt hàng xuất khẩu, chỉ có 24% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng mới nhưng có tới 33,3% dự kiến đơn hàng giảm trong quý I này.
Cần giảm thiểu tác động
Trong cơ cấu nền kinh tế nước ta nhiều năm qua, khu vực công nghiệp và xây dựng luôn chiếm tỷ trọng rất lớn, ở mức khoảng 38%. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo là một trong những động lực quan trọng nhất đóng góp vào tăng trưởng của toàn nền kinh tế. Do đó, việc động lực này có xu hướng giảm sút nhanh trong những tháng gần đây là đáng lo ngại.
Theo ông Lê Trung Hiếu, Phó Tổng Cục trưởng TCTK, nguyên nhân tình trạng chậm lại của sản xuất công nghiệp đến nhiều từ yếu tố bên ngoài và một phần từ các yếu tố trong nước. Như tốc độ xuất khẩu trong quý IV/2022 giảm không phải do năng lực sản xuất của Việt Nam không đảm bảo, mà chủ yếu do cầu tiêu dùng thế giới suy giảm nên doanh nghiệp không ký thêm được hợp đồng để gia tăng sản xuất. Để khắc phục, hạn chế xu thế suy giảm này, ông Lê Trung Hiếu đề xuất thực hiện một số giải pháp. Trong đó, tập trung kích cầu thị trường nội địa, để người Việt Nam biết và sử dụng nhiều hơn các mặt hàng do Việt Nam sản xuất, thay thế cho các mặt hàng nhập khẩu cùng loại.
Đồng thời, cần tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Bởi khi giá nguyên vật liệu tăng cao, giá hàng hóa xuất khẩu cũng tăng, làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Do đó, chúng ta cần có giải pháp căn cơ lâu dài là tăng tỷ lệ nội địa hóa bằng cách phát triển công nghiệp phụ trợ do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất và kêu gọi các doanh nghiệp FDI đầu tư sản xuất tại Việt Nam, từ đó giảm và tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, tránh biến động giá quá nhiều, cũng như giúp giảm giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, nỗ lực mở rộng thị trường xuất khẩu mới, tránh lệ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường truyền thống. Nhà nước cần tiếp tục có các chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp duy trì sản xuất, giảm thiểu việc cắt giảm lao động, để khi thị trường thế giới phục hồi có thể nhanh chóng sản xuất, không bị gián đoạn.
Bà Phí Thị Hương Nga nhận định, mặt bằng giá dầu thô, khí đốt; giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào; chi phí logicstic trên thế giới nhiều khả năng vẫn ở mức cao và tiếp tục tác động tiêu cực tới các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một khó khăn rất lớn khác là nhu cầu, thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp và giảm sút. Vì vậy, cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh và khâu tiêu thụ sản phẩm như: tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ thuế, phí xuất khẩu; kích cầu tiêu thụ trong nước; xem xét miễn, giảm thuế, phí cho đến hết năm 2025; giảm và ổn định tiền thuê đất; phân bố lại nguồn lực các chương trình quốc gia và chương trình an sinh trong gói phục hồi để hỗ trợ nhiều hơn, kịp thời hơn cho người lao động mất việc làm...
Với các doanh nghiệp, cần thực hiện chuyển đổi số, chuyển nhanh sang áp dụng mô hình kinh doanh mới, nhất là thương mại điện tử; giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực.