Nông nghiệp Việt: Nhìn lại để phát triển
Thách thức hóa giải quy mô nhỏ lẻ
Thủ tướng mới đây khẳng định, nông nghiệp vẫn là chỗ dựa cho nền kinh tế. Trong lúc dịch bệnh Covid-19 hoành hành trên toàn cầu và thực tế phát triển của ngành trong suốt thời gian vừa qua đã cho thấy điều này. Trong những năm gần đây, đã có sự tham gia tích cực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có những tập đoàn hàng đầu Việt Nam vào lĩnh vực nông nghiệp, hứa hẹn đem lại những đột phá lớn về chuỗi cung ứng, nông nghiệp công nghệ cao, quy mô sản xuất lớn để có sức cạnh tranh trong khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, Covid-19 khiến các chuỗi giá trị nông sản bị đứt gãy, các rủi ro thị trường và phi thị trường đều gia tăng. Nhìn về lâu dài, để nông nghiệp thực sự là trụ cột của nền kinh tế, là nền tảng cho phát triển bền vững thì còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong đó, làm sao hóa giải thực trạng nông nghiệp dựa trên quy mô nhỏ lẻ vừa là thách thức, vừa là nguyên nhân khiến hiệu quả sản xuất và giá trị gia tăng thấp là vấn đề đặt ra trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và nhất là RCEP sắp có hiệu lực. Thách thức này không dễ vượt qua nếu không có quyết tâm cao và hành động quyết liệt.
Cần gỡ bỏ các rào cản cứng nhằm hạn chế việc giao dịch đất nông nghiệp |
Trên toàn quốc hiện có khoảng 8,6 triệu hộ nông dân sản xuất với quy mô nhỏ lẻ với 80% số hộ có quy mô sản xuất dưới 1ha, phân tán và chủ yếu mua bán qua thương lái. “Nền nông nghiệp của chúng ta vẫn dựa phần lớn vào quy mô hộ nhỏ lẻ, đây chính là phần “vướng” then chốt để có thể áp dụng các giải pháp khoa học công nghệ nhằm có được nền nông nghiệp phát triển theo chiều hướng hiện đại, tập trung và hiệu quả”, ông Nguyễn Xuân Cường - Bộ trưởng Bộ NN&PTNT nhìn nhận.
Các giải pháp cho vấn đề này phải được quyết liệt triển khai và làm thực chất, hiệu quả. Trong đó, tập trung liên kết các hộ sản xuất để hình thành các hợp tác xã, tổ hợp tác và từ đó liên kết với các doanh nghiệp là một giải pháp khả thi nhất trong bối cảnh hiện nay. Nếu làm tốt giải pháp này, có thể hình thành một nền nông nghiệp tuần hoàn, khép kín để xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, có công nghiệp chế biến và được tổ chức thị trường tốt.
Gỡ bỏ các rào cản cứng, phát huy vai trò hợp tác xã
Trên thực tế, giải pháp này đã được triển khai trong những năm qua. Đến nay, trên cả nước đã có khoảng 16.500 hợp tác xã, vượt mục tiêu đến năm 2020 có 15.000 hợp tác xã kiểu mới đã đặt ra. Số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và tham gia vào ngành nông nghiệp cũng ngày càng tăng. “Bốn năm qua chúng ta đã tăng gấp 3 lần số doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Những doanh nghiệp này vào đã cùng với hợp tác xã làm hạt nhân liên kết với bà con nông dân, đã hình thành được những vùng sản xuất lớn, tương đối tập trung và tất cả mọi vùng của đất nước hiện nay đều đang triển khai việc đó. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn còn một phần lớn chưa liên kết chặt chẽ, do đó giải pháp tới đây cả ngành nông nghiệp, cả chính quyền địa phương phải quyết tâm hơn”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường thông tin.
Bài toán hiện nay là làm sao tăng cường được hiệu quả vai trò của các hợp tác xã trong liên kết các hộ nông dân và doanh nghiệp từ đó củng cố và gia tăng phát triển của các chuỗi giá trị nông sản. Theo PGS.TS. Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, sự tham gia của các hợp tác xã vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế. Đến cuối năm 2019 mới chỉ có 24,5% hợp tác xã nông nghiệp có dịch vụ tiêu thụ nông sản cho các thành viên và khoảng 10 - 15% sản lượng nông sản do nông dân sản xuất ra được tiêu thụ thông qua các hợp tác xã /Tổ hợp tác. Một con số cũng rất đáng chú ý khác là tỷ lệ hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao mới đâu đó quanh mức 10%.
Từ những thực tiễn nêu trên, PGS.TS. Đào Thế Anh đề xuất cần các chính sách để nâng cao năng lực, vai trò của hợp tác xã cũng như khuyến khích hơn nữa việc hình thành và phát triển các mô hình liên kết doanh nghiệp - hợp tác xã - hộ nông dân gắn với công nghệ cao theo chuỗi giá trị, trong đó xác định liên kết hợp tác xã - doanh nghiệp là trung tâm của chuỗi giá trị.
Về mặt vĩ mô và dài hạn, ThS. Trương Quốc Cần, Viện trưởng viện Tư vấn Phát triển Kinh tế xã hội Nông thôn và Miền núi (CISDOMA) cho rằng cần có sự đánh giá lại một cách thấu đáo về vai trò của đất đai nông nghiệp trong giai đoạn mới, nhằm xác định rõ quan điểm sử dụng đất nông nghiệp, từ đó có định hướng nhất quán giữa chính sách với các quy định pháp lý liên quan đến đất nông nghiệp. Với quy mô đất đai của Việt Nam cực kỳ manh mún, việc tập trung, tích tụ đất nông nghiệp để mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường hiệu quả sử dụng đất là cần thiết. Cần gỡ bỏ các rào cản cứng nhằm hạn chế việc giao dịch đất nông nghiệp, thay vào đó là các chế tài đảm bảo việc sử dụng hiệu quả, đúng mục đích sử dụng đất. Các giao dịch đất nông nghiệp cần được thực hiện trên cơ chế thị trường, có sự thỏa thuận và đồng thuận của các bên, Nhà nước hỗ trợ về mặt pháp lý và tư vấn để đảm bảo quyền và lợi ích của nông dân nhỏ và các nhóm yếu thế trong các giao dịch này.