Sống chậm trong ngõ ngoại thành
Ở ngoại thành với những con ngõ như làng Cựu (Phú Xuyên), làng Tây Mỗ (quận Nam Từ Liêm), làng Cự Đà (Thanh Oai) hay Thụy Hương (Đông Anh)… dẫu không đến mức người đi phải nghiêng mình lách qua, song cũng phải chậm lại. Chậm lại nên sẽ có cảm giác sống chậm. Vừa đi vừa nghĩ, ngắm nhìn pho cổng, mảng tường rêu đầy hoài niệm. Hôm tôi đến làng Cựu, bắt gặp người phụ nữ rê thóc theo kiểu… tự nhiên. Rê thóc là hình thức người nông dân gom phần thóc đã được phơi nắng kỹ lưỡng, dùng thúng xúc rồi đứng xuôi chiều gió, nghiêng thúng cho thóc chảy xuống từ từ. Những hạt thóc mẩy đậu lại. Thóc lép và rờm rúa, bụi sẽ bay ra xa hơn một chút. Cảnh ấy rất gợi nhớ những góc đời rất chậm, thật và dân dã, cho mỗi người con xa quê đều ăm ắp ngậm ngùi.
Vẻ đẹp trầm tích của con ngõ ngoại thành Hà Nội |
Ngày xưa chưa có quạt máy, người ta dùng quạt giấy to cỡ cánh tủ chè để tạo gió giúp việc rê thóc dễ dàng hơn. Nay công việc đó đã có quạt điện, gộp cả hai chiếc vào cùng lúc, tạo ra tốc độ gió lớn giúp giảm bớt sức lao động. Ở quê tôi, quạt máy đã xuất hiện gần 20 năm. Nay nhìn thấy cảnh rê thóc trong ngõ hút gió, chợt thấy ngậm ngùi. Hỏi chuyện bà Nụ. Bà bảo thèm cảm giác ngày xưa, nên đem ra rê thử, chứ nhà bà có mấy chiếc quạt máy, chỉ thoáng chốc là rê xong tạ thóc.
Hóa ra đó là người phụ nữ nhiều chuyện. Bà Nụ tuổi 60 nhưng còn đẹp. Bà về làm dâu làng Cựu đã 40 năm. Xưa ở tuổi 20, làng Cựu vẫn trầm ấm như thế. Vẫn nhiều con ngõ lát gạch nghiêng, thâm nghiêm màu cổ kính. Cuộc sống ngoài kia có quá nhiều thay đổi, thì bà thấy làng Cựu dù có những nét thay đổi, nhưng là sự thay đổi khá chậm so với muôn biến thiên của dòng đời. Hơn thế, màu xám rêu và những nếp nhà cổ cùng bóng dáng cây xanh đậm chất quê khiến thời gian như đang trôi chậm lại ở nơi này. Nhiều người ở làng, như bà vẫn gội đầu bằng vỏ bưởi khô, bồ kết, được trồng trong vườn của các gia đình. Cây bưởi, cây vối, hay cây bồ kết của làng không phát triển mạnh mẽ óng ả như ở những ngôi làng khác. Nơi đây người dân nhu mì, mộc mạc, giản dị nên cây cối cũng khoác một màu giản dị. Chầm chậm lớn. Chầm chậm dâng hương. Còn nhớ, ngày xưa đường làng Cựu đều được trải bằng đá xanh phiến lớn, ngõ được lát ngạch nghiêng hoặc đá phiến nhỏ hơn. 20 năm qua, đá phiến trải đường bị thay dần bằng bê tông. Bây giờ người trẻ làm ăn xa về làng, nghe các cao niên kể lại mà thấy tiếc…
Cỡ tuổi ông bà, cha chú bà Nụ ngày xưa ở làng Cựu giỏi làm nghề thợ may, đã đi khắp chốn đô thành, kinh kỳ tìm việc, tích cóp tiền của, trở thành giới thượng lưu. Họ mang tiền về xây dựng nhà cửa, mang theo phong cách châu Âu, nhưng được phối hợp hài hòa ở phần nhà ngang, cổng, cuốn thư, đại tự trước cửa nhà. Làng Cựu dần biến thành “làng Tây”, và đến nay, trở thành một điểm đến thú vị. Nhìn vào ngôi nhà là biết gia chủ thuộc diện quan lại, hay dân buôn giàu có. Nhưng đậm nhất là lối kiến trúc quyển thư, ngõ hầu nhắc nhở con cháu chăm chỉ việc đèn sách. Bà Nụ có hai người con trai, hiện buôn bán rất giàu có, mời bà và chồng lên phố sống, phụng dưỡng, khỏi phải động tay đến đồng đất cấy hái rau dưa. Nhưng bà bảo, hai vợ chồng già không thể tách rời làng cổ, nông thôn. Bà Nụ vẫn thích mỗi mùa lại vục tay xuống bùn, hít thở vị bùn non, vị lúa lên đòng. Mùi rơm rạ, thóc mới rồi mùi cơm mới hấp dẫn bà. Những câu chuyện cổ tích, các phiên chợ, mâm cỗ quê, cơi trầu… giữ bà. Đận năm ngoái, con trai thứ hai đưa ông bà đi du lịch tận miền trung, được ba ngày bà đã thấy hoang hoải, bần thần. Bà đòi về. Như thể tinh thần những người như bà bị găm lại, níu với làng, với nếp sống thuần phác giản dị.
***
Ở làng cổ thường có cổ thụ. Những hình ảnh thâm nghiêm nua già cũ kỹ thường đi với nhau tạo ra nền nếp và phong thái của làng. Dưới bóng cổ thụ hay dưới những pho cổng nhà cổ trong ngõ, thường có các cụ già râu tóc bạc phơ ngồi đánh cờ. Có khi là sự giao lưu của người già và người trẻ, như để tạo sự gắn kết tình làng, tình người. Về làng đôi khi thấy ngỡ ngàng, bởi ở đó rất nhiều đoàn làm phim tìm về. Còn nơi nào phù hợp hơn, khi lấy không gian làng cổ để quay những thước phim cũ từ nhiều thập niên về trước.
Thiếu nữ trong ngõ xuân |
Trong các làng ngoại thành, Tây Mỗ được nhiều đoàn làm phim quan tâm nhất. Không chỉ bởi ở đây có “chị nuôi của các đoàn làm phim” - bà Hoàng Thị Yên - đầy tình nghĩa, giữ nhà cổ của dòng họ, mà còn có rất nhiều người yêu quý, giữ nhà cổ để phục vụ các đoàn làm phim. Nết ăn nết ở nơi đây hiền hòa. Vì thế Tây Mỗ vẫn còn những gia đình tam, tứ đại đồng đường (ba bốn thế hệ chung sống dưới một không gian nhà). Người già nên chức cụ. Cụ là linh hồn của nhà. Là cây cao bóng cả, răn dạy và là điểm tựa để con cái sum vầy. Như gia đình bà Hoàng Thị Yên, đến nay ba người con đã dựng vợ gả chồng, nhưng vẫn ăn chung với bà, dù làm việc ở trung tâm thành phố, có điều kiện nhưng không muốn ở riêng, mà vẫn muốn gắn kết với mẹ. Bà là tấm gương sáng đẹp, giữ mối đoàn kết giữa các con. Cho các con, cháu niềm hạnh phúc của một tổ ấm thật sự, một đại gia đình. Khi dòng chảy cuộc đời xô đẩy, gia đình tam, tứ đại đồng đường mai một, thậm chí hiếm hoi lắm mới có những gia đình lớn chung sống, thì nếp nhà của bà Yên là một tấm gương, một giá trị mà nhiều người đã về khai thác, tìm hiểu. Họ sẽ được giới thiệu sang những gia đình khác nữa. Gặp họ, người ta thấy họ sống thảnh thơi, sống chậm một cách điềm nhiên. Như thể những hấp lực của vật chất ngoài xã hội chẳng làm họ lung lay. Họ vẫn có con cái hiếu thuận, hiển đạt, các cháu chăm ngoan học giỏi, lễ phép. Họ vẫn có lương hưu, không phải khó khăn trong chi tiêu. Vậy thì, đoàn tàu thời gian dù có vèo trôi cuốn muôn người về phía trước, để ứ dồn đâu đó khoảng thời gian nhanh như chớp, gấp gáp, cũng chẳng gây ảnh hưởng đến những tổ ấm vững chãi này.
Càng chứng tỏ, không phải cái gì mau chóng cũng hay, chẳng phải cứ đô thị ngồn ngột người, công nghệ hiện đại đã văn minh, thanh thản và vui sướng như những người hít thở khí trời trong lành, nghe tiếng chim hót lúc bình minh nơi thôn quê. Mỗi người một lựa chọn. Hà Nội có những quan niệm về hạnh phúc, niềm vui trái ngược nhau đến lạ lùng như thế.
Theo tài liệu viết về đất Thăng Long Hà Nội có câu “Nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh, Cót”, hay “Mỗ, La, Canh, Cót - tứ danh hương” để nói về cảnh đẹp và truyền thống văn hóa Tây Mỗ. Tây Mỗ có những ngõ nhỏ ngoằn ngèo, nhà thờ họ, sân đình, cổ thụ rêu phong bình dị. Hơn nữa giới trẻ ngày nay thích đến làng cổ làm clip cá nhân, hay sinh viên báo chí, truyền hình đến làm những bài tập phóng sự truyền hình, đoạn phim ngắn về tuổi thanh niên hoặc những trải nghiệm đầu đời. Tôi thấy bóng dáng thiếu nữ với nụ cười thanh tân, bờ vai thanh tân, ánh mắt nhấp nhính bên những phím rêu xanh như phím nhạc đời. Các thiếu nữ về đây đều đến tìm bà Yên. Không gian nhà bà phù hợp cho mỗi ai muốn ghi hình. Gia đình bà cũng là một tấm gương đáng học tập. Sau đó đi qua một đoạn kênh rạch được gon bằng tường hoa, đến con ngõ nhỏ gặp chị Hạnh. Chị Hạnh là người ở làng, mặn mà, xinh đẹp với đôi mắt thăm thẳm. Chỉ tiếc chị không nói được. Chị cũng không yêu ai dẫu nhiều chàng trai ngỏ ý. Chị không muốn xa bố mẹ, xa không gian nhà cổ của mình. Có lẽ cũng vì chị ở vậy nên chị trẻ lâu, hơn nhiều so với tuổi 40. Chị thành một biểu tượng của vẻ đẹp thuần phác mà nhiều nhiếp ảnh gia, họa sĩ đã tìm về để chụp hình, vẽ tranh. Chị cứ ngời lên, sinh động, đức hạnh trong mỗi khuôn hình. Những cô gái mặc áo dài trắng, tay bưng hoa đứng cạnh cũng thua kém vẻ đẹp ấy.
Dẫu sao, những gương mặt tuổi 20 đến làng đã làm làng sinh động hơn hẳn. Tuổi trẻ và làng cổ tôn bồi nhau. Tuổi trẻ khiến làng cổ trở nên cổ kính hơn và làng cổ khiến thiếu nữ trẻ trung hơn. Nhưng cả hai đều cho thấy dù cuộc đời quay cuồng, thời gian chảy trôi cuốn đi rất nhiều ký ức, làm ra rất nhiều sự giàu có, thì con người cần lắm những khoảng tĩnh lặng. Tĩnh lặng để nghĩ. Rồi có thể đi qua những con ngõ ngoại ô thành phố, để sống chậm lại, nghiền ngẫm và trân quý giá trị sâu thẳm mà thời gian vẽ vào cuộc đời. Biết đâu sẽ gặp được những điều vượt xa bản thân.