Tận dụng tốt cơ hội từ EVFTA: Hỗ trợ giúp Việt Nam giảm nghèo bền vững
Thủ tướng phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định EVFTA | |
Chất lượng hàng hóa: "Giấy thông hành" cho doanh nghiệp tham gia EVFTA | |
Thực thi EVFTA: Lấy doanh nghiệp làm trọng tâm |
Đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh chẳng những làm giảm GDP tại EU năm 2020 dự kiến xuống mức -7,4%, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh tế - thương mại, dẫn đến những thay đổi chính sách cũng như tập quán, xu hướng tiêu dùng tại châu Âu. Thực tế cho thấy nhu cầu nhập khẩu, tiêu dùng và sức mua tại EU suy giảm mạnh; giao thương, lưu thông hàng hóa bị gián đoạn đáng kể. Số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU trong 6 tháng đầu năm 2020 giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2019, với kim ngạch khoảng 16,41 tỷ USD.
Ông Hoàng Quốc Vượng, Thứ trưởng Bộ Công thương chia sẻ, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8 sẽ tạo ra bước ngoặt mới cho quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - EU. Theo đó, hai bên cam kết xóa bỏ gần như 100% các dòng thuế theo lộ trình từ 7 - 10 năm; hai bên cam kết mở cửa các thị trường dịch vụ và đầu tư như tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử, logistics...
Đưa EVFTA vào thực thi, nông sản Việt hạ giá thành khi xuất khẩu vào EU |
EU là thị trường lớn và đầy tiềm năng với gần 500 triệu dân và GDP khoảng 16 nghìn tỷ USD. Đây cũng là thị trường có kim ngạch nhập khẩu đứng thứ 2 thế giới nhưng Việt Nam mới chiếm thị phần khoảng 2% trong tổng số nhập khẩu của EU. EVFTA tạo cơ hội để Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu, đặc biệt là với nhóm hàng nông sản, nhất là khi gói hỗ trợ 750 tỷ euro đã được thông qua. Được biết, EU nhập khẩu 150 tỷ euro/năm, trong khi Việt Nam chỉ chiếm 4,5 tỷ euro trong số đó. Quan trọng hơn, đây là các nhóm hàng mà Việt Nam có lợi thế và không cạnh tranh trực tiếp với các nhóm hàng của thị trường này. Chính vì thế, Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu nông sản sang EU, ông Trần Văn Công, Tham tán Nông nghiệp Việt Nam tại EU chia sẻ.
Ví dụ với thủy sản, mỗi năm thị trường EU nhập khẩu tới 60 tỷ euro, còn Việt Nam mới xuất vào EU được 1,13 tỷ euro. Hay với nhóm hàng rau quả, EU cũng nhập 35 tỷ euro/năm, trong khi tổng kim ngạch rau củ quả của Việt Nam xuất sang EU chỉ có 130 triệu euro. Tuy nhiên, rau củ quả Việt Nam vào EU phải đáp ứng yêu cầu về giấy kiểm dịch theo các lô hàng và áp dụng hậu kiểm về an toàn thực phẩm, mà không áp dụng các quy trình như một số đối tác Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc là phải đánh giá rủi ro, sau đó cấp mã vùng trồng, cơ sở đóng gói; cử đoàn chuyên gia sang tận Việt Nam để giám sát kiểm dịch cho xuất khẩu đối với từng lô hàng… Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sang EU tăng rất mạnh, bình quân mỗi năm khoảng 25%.
Tương tự với mặt hàng gạo, thị trường EU có nhu cầu gạo rất lớn với lượng tiêu thụ một năm khoảng 3,6 triệu tấn. Lượng nhập khẩu khoảng 1,2-1,3 triệu tấn/năm. Năm 2019, Việt Nam mới xuất khẩu đạt 50 nghìn tấn, trong khi được cấp hạn ngạch tới 80 nghìn tấn…
Tiềm năng thị trường EU là rất lớn, nhưng có nhiều rào cản kỹ thuật. Khi nông sản Việt Nam muốn có chỗ đứng tốt tại thị trường EU phải đáp ứng các yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật, nhất là tuân thủ nghiêm các quy định về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, vấn đề ô nhiễm vi sinh vật đối với nông sản, có chứng nhận GlobalGAP… Muốn tiếp cận và khai thác hiệu quả, người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu đều phải xây dựng kế hoạch dài hạn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào canh tác, thu hoạch lẫn chế biến, mới mong đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng hàng hóa. Để có thể chinh phục thành công thị trường EU, ngoài việc nâng cao mức độ hiểu biết và tuân thủ các nguyên tắc, tiêu chuẩn về lao động và môi trường, đảm bảo tính bền vững của hoạt động sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu thị trường, tìm hiểu đối tác qua các tham tán thương mại tại EU, Tham tán Trần Văn Công khuyến nghị.
Là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao, có mức độ cam kết mở cửa sâu rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực cả thương mại và phi thương mại, cả truyền thống và hiện đại, EVFTA được kỳ vọng sẽ tiếp tục trở thành động lực giúp Việt Nam đạt được những thành tựu nổi bật về tăng trưởng cũng như giảm nghèo. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho biết, EVFTA sẽ giúp thêm 0,1 - 0,8 triệu người thoát nghèo vào năm 2030, tương đương mức giảm 0,7% so với kịch bản không có EVFTA. Cùng với đó, khoảng cách tiền lương theo giới tính cũng được thu hẹp thêm 0,15%, đặc biệt cho các hộ gia đình thuộc nhóm 40% có thu nhập thấp nhất.
Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong ngắn hạn, EVFTA sẽ góp phần làm GDP tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 – 3,25%. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 42,7% trong 5 năm đầu thực thi hiệp định. Tăng trưởng xuất khẩu đặc biệt lớn ở các ngành mà ta có thế mạnh như nhóm hàng nông sản (gạo), nhóm ngành chế biến chế tạo (dệt may, giày dép) và nhóm ngành dịch vụ (vận tải thủy, vận tải hàng không…). Cánh cửa vào thị trường khắt khe nhất thế giới cho ngành nông sản Việt Nam cũng ngày càng rộng mở với việc EU bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý cho các mặt hàng nông sản Việt Nam. Ngành sản xuất trong nước càng sôi động thì số lượng việc làm sẽ tăng thêm càng nhiều.
Ở chiều ngược lại, EVFTA càng cam kết sâu và rộng trong lĩnh vực đầu tư, giúp hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó thu hút thêm nhiều nhà đầu tư EU đến Việt Nam, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động trong nước. Theo đánh giá, hiệp định sẽ giúp tăng thêm 146 nghìn việc làm/năm.
Về dài hạn, EVFTA góp phần làm tăng ngân sách nhà nước nhờ thu nội địa tăng (dự kiến tăng 7.000 tỷ đồng sau 10 năm thực thi hiệp định). Từ đó, nguồn lực dành cho các chương trình xóa đói giảm nghèo sẽ tăng lên theo, gián tiếp giúp người nghèo tiếp cận được với đường sá, giao thông và các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nguồn nước sạch tốt hơn.
Không chỉ tăng số lượng việc làm, mà dự báo sẽ giúp tăng tiền lương của người lao động thông qua hoạt động của thị trường hiệu quả hơn. Qua đó giúp cải thiện thu nhập bình quân đầu người, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Cùng với công cuộc đổi mới, hội nhập toàn cầu là một trong những động lực chính tạo nên những thành tựu nổi bật về tăng trưởng và giảm nghèo của Việt Nam trong 3 thập kỷ qua. Tuy nhiên, để xóa đói giảm nghèo theo hướng bền vững, giảm thiểu tình trạng tái nghèo, thu hẹp khoảng cách phân hóa giàu nghèo, ngoài nguồn lực trong nước, Việt Nam cần biết tận dụng các xung lực từ bên ngoài, tận dụng những cơ hội có được để thâm nhập nền kinh tế toàn cầu, từ đó làm vững mạnh nền kinh tế trong nước theo hướng bền vững. Đây sẽ là những bước đệm vững chắc để thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững mà Chính phủ đã đề ra, nhóm nghiên cứu khẳng định.