Tăng cường phòng ngừa rủi ro an ninh tài chính, tiền tệ
Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã và đang phải đối mặt với bất ổn kinh tế vĩ mô, đe dọa đến an ninh tài chính, hệ thống tài chính xuất hiện nhiều rủi ro lớn. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đã phục hồi, tuy nhiên, rủi ro tiềm ẩn đến an ninh tài chính vẫn còn, đặc biệt là nợ công, nợ nước ngoài. Diễn biến phức tạp, kéo dài của dịch Covid-19 đã đang và sẽ là thách thức lớn với triển vọng phục hồi kinh tế năm 2020-2021, nhiều quốc gia và khu vực đã chính thức rơi vào suy thoái kinh tế. Theo dự báo mới nhất của IMF và WB, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2020 sẽ ở mức âm (-4 đến -4,4%), tuy mức giảm ít hơn mức dự báo hồi tháng 6/2020 (-5,2%), song vẫn là mức giảm mạnh nhất kể từ năm 1930.
Ảnh minh họa |
Theo TS. Cấn Văn Lực - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia, với quy mô thị trường tài chính Việt Nam (gồm cả 3 khu vực là ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm) tương đương 366% GDP (tính đến 30/11/2020 trên nền GDP 9 tháng/2020), thì tác động của các nguy cơ, rủi ro tài chính toàn cầu đối với Việt Nam là không nhỏ, có thể cùng tác động vào nhiều lĩnh vực và có tính lan truyền. Tuy nhiên, khả năng ứng phó và giảm tác động tiêu cực từ nguy cơ bất ổn tài chính của Việt Nam được khẳng định bởi nền tảng kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính khá vững chắc và ổn định trong năm qua. Cùng với đó, cũng có nhiều cơ hội để nâng cao vị thế, tăng niềm tin của người dân, DN và cộng đồng quốc tế với khả năng kiểm soát tốt dịch bệnh, tăng trưởng kinh tế dương và ở mức cao nhất thế giới và khu vực trong năm 2020; sức mạnh tài chính khá tốt và vị thế quốc tế không ngừng được tăng lên; là một trong số ít quốc gia giữ vững xếp hạng tín nhiệm ở mức ổn định.
Theo các đánh giá, thị trường tài chính Việt Nam có mức độ rủi ro và sức chịu đựng trung bình - khá. Bên cạnh nhiệm vụ phòng chống dịch bệnh hiệu quả và khôi phục kinh tế, Việt Nam cần phải đảm bảo hiệu quả các gói hỗ trợ đồng thời đảm bảo an toàn tài khóa và nợ công; hoàn thiện thể chế, phát triển đồng bộ, cân bằng hệ thống tài chính…
Cùng với đó, rủi ro tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng Việt Nam đang là vấn đề khá thách thức. Báo cáo 8 tháng đầu năm 2020 của Công ty an ninh mạng Viettel cho thấy, 90% trong số 3 triệu vụ cảnh báo tấn công mạng là nhắm đến hệ thống tài chính - ngân hàng. Trong đó, 4 chiến dịch tấn công Phishing4 khiến 26.000 người dùng tài khoản ngân hàng bị ảnh hưởng; các hình thức tấn công cũng đa dạng và tinh vi, phổ biến là khai thác web (chiếm 77,6%), mã độc hại (12,1%), vét cạn (3,9%), các loại hình tấn công khác như từ chối dịch vụ, nhắm vào thiết bị di động chiếm 6,5%.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong phòng ngừa và trấn áp tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng; làm chủ 90% hệ sinh thái các sản phẩm an toàn, an ninh mạng và đầu tư nhiều giải pháp an toàn thông tin như tường lửa thế hệ mới, phần mềm ngăn chặn mã độc, xác thực bằng sinh trắc học (vân tay, tĩnh mạch lòng bàn tay, giọng nói), chữ ký số. Bộ Công an đã phát hiện và xử lý nhiều nhóm tội phạm mạng hacker, vi phạm cho vay qua Apps, chuyển tiền ra nước ngoài, mạo danh nhân viên ngân hàng, cán bộ Công an, cài phần mềm gián điệp và trộm tiền ảo...
Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh, hoạt động phòng chống tội phạm tài chính - ngân hàng còn gặp nhiều thách thức do hạn chế về thể chế, năng lực tổ chức quản lý; còn nhiều lỗ hổng bảo mật chưa được khắc phục kịp thời; số vụ tấn công lừa đảo chiếm đoạt tài khoản ngân hàng dự báo còn tăng. Vì vậy, các bộ, ngành, các DN và tổ chức tài chính cần tăng cường ứng dụng công nghệ, phối hợp chặt chẽ trong nước và quốc tế trong cảnh báo, phòng ngừa và ứng phó với loại hình tội phạm phức tạp và tinh vi này.
Theo bà Nguyễn Thị Minh Hằng - Phó Trưởng phòng Quản lý rủi ro NHTMCP Công thương Việt Nam, trong hoạt động ngân hàng có các rủi ro tiềm ẩn như sai sót cá nhân, hay rủi ro không xác định được người thực hiện giao dịch và rủi ro mất (bị phá hủy) dữ liệu. Bên cạnh đó, còn có rủi ro bảo mật thông tin, an ninh mạng, xu hướng tội phạm công nghệ đang chuyển dần từ tấn công cơ học sang khai thác các lỗ hổng về công nghệ và người dùng. Để làm tốt phòng ngừa rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng đòi hỏi phải hoàn thiện quy định pháp luật.
Theo TS. Cấn Văn Lực, thời gian tới, Việt Nam cần đảm bảo hiệu quả các gói hỗ trợ, đồng thời đảm bảo an toàn tài khóa và nợ công. Đồng thời, tiếp tục nâng cao năng lực của khu vực ngân hàng, hướng tới chuẩn mực quốc tế và phát triển bền vững. Chính phủ cho phép sửa đổi Thông tư 01 (NHNN) theo hướng có lộ trình kết thúc việc giữ nguyên nhóm nợ khi cơ cấu lại, lộ trình trích lập dự phòng rủi ro đối với các TCTD cho phù hợp với thực chất của khoản nợ, với năng lực tài chính của TCTD; tập trung tái cấu trúc một cách toàn diện, nhất là các TCTD yếu kém, nâng cao năng lực quản trị - tài chính (nhất là hệ số an toàn vốn) và quản trị rủi ro theo Basel II. Đẩy nhanh tháo gỡ vướng mắc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội (chứng khoán hóa nợ xấu, phát triển thị trường mua bán nợ; cần thiết Luật hóa về xử lý nợ xấu); từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng chống chịu rủi ro của các TCTD. Ngành Công an làm đầu mối phối hợp với ngành Ngân hàng, tài chính và bộ, ngành, địa phương tiếp tục nâng cao nhận thức, hành động và hiệu quả công tác phòng chống tội phạm tài chính - ngân hàng.