Tầng lớp trung lưu tại Nhật đang bị thu hẹp
“Sau khi bong bóng bùng nổ vào những năm 1990, thu nhập đã giảm trên mọi nấc thang thu nhập và tỷ lệ các hộ gia đình có thu nhập thấp đã tăng lên khi những người thuộc nhóm thu nhập trung bình và cao bị thu hẹp lại”, Nagai cho biết và cảnh báo: “Tầng lớp trung lưu đang biến mất ở Nhật Bản, mặc dù tốc độ là khá chậm”.
Mười năm bắt đầu từ đầu những năm 1990 thường được gọi là “thập kỷ mất mát” của Nhật Bản, thời kỳ được đánh dấu bởi sự đình trệ kinh tế và giảm phát sau sự bùng nổ trong những năm trước. Theo số liệu mới nhất của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, tỷ lệ nghèo của Nhật Bản ở mức 15,7%. Đó là những người có thu nhập hộ gia đình ít hơn một nửa so với trung bình của toàn bộ dân số.
Ảnh minh họa |
Yếu tố chủ đạo trong việc xác định phân phối thu nhập ở Nhật là “hệ thống việc làm trọn đời”, Nagai nói. Hệ thống này được thực hiện dựa trên 3 trụ cột: “Bảo đảm ngầm” chăm sóc nhân viên cho đến khi nghỉ hưu; Tiền lương được quyết định bởi thâm niên; Các tổ chức công đoàn.
Trong hệ thống việc làm tương đối ổn định nhưng cứng nhắc này, tiền lương chỉ tăng dần. Các công ty cũng chú trọng nhiều hơn vào bảo vệ việc làm thay vì “tưởng thưởng” cho sự cải thiện hiệu suất hoặc năng suất. Theo đó, việc tăng lương được quyết định bởi một cuộc đàm phán giữa công đoàn và các nhà quản lý vào mùa xuân hàng năm. Điều khác biệt giữa quy trình này với các nước phát triển khác là mức tăng lương cơ sở thường trải đều trên toàn bộ thang lương dựa trên thâm niên.
Theo Nagai, hệ thống không giống như các hệ thống lương thưởng của phương Tây, nơi các giám đốc điều hành hàng đầu thường có mức thu nhập lớn gấp nhiều lần các nhân viên khác. Mặc dù trên thực tế, mức lương điều hành là không đáng kể so với những quốc gia khác như Mỹ, tuy nhiên giới thượng lưu ở Nhật Bản vẫn hài lòng với thang lương này.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, các công ty Nhật Bản cũng đã chuyển đổi mô hình lao động thường xuyên - những người trước đây có thể được hưởng hệ thống việc làm trọn đời tương đối đặc quyền - thành lao động bán thời gian. Sự thay đổi này, bắt đầu từ đầu những năm 2000 khi các công ty cố gắng để tồn tại trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với các nền kinh tế thị trường mới nổi như Trung Quốc, nơi chi phí lao động thấp hơn.
Theo Nagai, sự gia tăng của lao động bán thời gian trong thời gian vừa qua cũng có thể đến từ hai nguồn: Phụ nữ và người cao tuổi. Theo dữ liệu từ văn phòng thống kê Nhật Bản, số lượng nhân viên không thường xuyên tăng với tốc độ hàng năm là 2,1% trong năm 2019, nhanh hơn nhiều so với mức tăng trưởng 0,5% của nhân viên thường xuyên.
“Mặc dù tiền lương theo giờ đã tăng nhanh hơn đối với lao động không thường xuyên do thiếu lao động, nhưng họ vẫn được trả ít hơn nhiều so với những người lao động bình thường. Ngoài ra, sự tham gia của phụ nữ và người già vào thị trường lao động với tư cách là những người làm việc bán thời gian đã làm giảm số giờ làm việc”, Nagai nói và nhấn thêm: “Một phần của các hộ gia đình có thu nhập thấp sẽ tiếp tục tăng khi nhiều người làm việc bán thời gian làm việc ít giờ hơn”, ông nói.
Trong khi đó, kỳ vọng lạm phát thấp thực sự dai dẳng tại Nhật, Nagai nói và cho rằng, chính điều này cũng góp phần khiến cho việc tăng lương bị trì hoãn. Trong nhiều năm qua, Ngân hàng Trung ương Nhật đã phải vật lộn mà vẫn không thể đạt được mục tiêu lạm phát 2% cho dù đã thực hiện các biện pháp quyết liệt như giảm lãi suất xuống mức âm.
Theo Nagai, những người hưởng lợi chính của chính sách lãi suất thấp và nới lỏng định lượng thường là những người sở hữu bất động sản hoặc cổ phiếu. Trong khi phần đông các hộ gia đình Nhật Bản không được hưởng lợi gì vì không đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, thậm chí còn bị ảnh hưởng do lãi suất tiết kiệm giảm.