Thị trường chứng khoán liệu có hút vốn?
Ảnh minh họa |
Theo số liệu thống kê từ Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HoSE), nửa đầu của tháng 2/2014, các nhà đầu tư nước ngoài giao dịch mua trên 60 triệu đơn vị, bán gần 47 triệu đơn vị, trong khi tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường trong khoảng thời gian đó là gần 1.079 triệu đơn vị. Giá trị mua ròng của khối ngoại gần 372 tỷ đồng trong tổng giá trị giao dịch toàn thị trường gần 16 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh các phiên giao dịch tăng, giảm đan xen thì VN-Index đã tăng hơn 13 điểm và HNX-Index tăng trên 5 điểm. Thanh khoản trong các phiên giao dịch cũng gia tăng rất nhanh, với dòng tiền lên tới trên 3.000 tỷ đồng mỗi phiên.
Nhìn vào chỉ số thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thuộc nhóm tăng cao trên thế giới trong những tháng đầu năm 2014, không thể không nhìn nhận kết quả tích cực của thị trường đến từ các chính sách điều hành hợp lý.
Cơ sở đầu tiên chính là do lãi suất đã xuống thấp và sẽ khó có khả năng biến động tăng nóng vì lạm phát đã và đang được kiểm soát chặt chẽ theo mục tiêu. Nhìn từ TTCK có thể thấy tác động hiệu ứng từ chính sách điều hành lãi suất của NHNN mà điểm căn bản mang tính nguyên tắc là việc thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Trong điều kiện thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam, “lãi suất không dương, vô phương huy động”.
Cụ thể hơn, đó là chính sách lãi suất huy động tiền gửi của NHTM phải “dương” so với lạm phát mục tiêu. Căn cứ vào chỉ tiêu điều hành lạm phát được ấn định bởi Quốc hội, ngành Ngân hàng sẽ kết hợp với thực tế thị trường để đưa ra mức lãi suất điều hành, thể hiện ở lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn. Đặc biệt, mấy năm nay còn duy trì chế độ lãi suất trần, chủ yếu áp dụng cho hoạt động huy động vốn, nhưng có lúc còn áp dụng đối với cả hoạt động tín dụng. Tình hình chung là từ 2011 trở về trước, lãi suất thường khá cao và cũng khá bất ổn. Chỉ từ 2012 đến nay, lãi suất mới được điều chỉnh ổn định dần về mức thấp theo đà giảm của chỉ số lạm phát.
Hiện tại, lãi suất tiền gửi đang có mức phổ biến theo các kỳ hạn như sau: không kỳ hạn đến dưới 1 tháng từ 1 – 1,2%/năm; từ 1 – 6 tháng là 5 – 7%; từ 6 – dưới 12 tháng 6,5 – 7,5%/năm; trên 12 tháng từ 7,5 – 9%/năm. Còn lãi suất cho vay ngắn hạn, đối với 5 lĩnh vực ưu tiên cho sản xuất trực tiếp, phổ biến ở mức 7 – 9%/năm, các lĩnh vực kinh doanh khác từ 9 – 11%/năm; lãi suất tín dụng trung – dài hạn phổ biến 11,5 – 13%/năm.
Nếu so với các chỉ số mục tiêu của kinh tế vĩ mô năm 2014 như GDP 5,8%, lạm phát 7%, bội chi 5,3% GDP, thì tình hình lãi suất nêu trên sẽ chỉ còn rất hẹp “cửa” để giảm thêm nữa. Điều quan trọng ở đây là các mức lãi suất huy động và cho vay đó đã có lợi cho người dân, ngân hàng và DN. Theo nhiều chuyên gia với người gửi tiền mức đang áp dụng nếu so với lạm phát mục tiêu đã thực sự dương, tuy khoảng chênh lệch không lớn. Còn với tín dụng cho DN, mức lãi suất cho vay ngắn hạn cao nhất cũng chỉ 11%/năm, là đã đảm bảo kinh doanh có lời. Riêng đối với ngân hàng, nhìn chung lãi biên cũng đủ để bảo đảm hoạt động.
Chuyển vốn trung – dài hạn sang TTCK là quan điểm của nhà điều hành chính sách tiền tệ tín dụng, thể hiện bằng thông điệp đã không ít lần được công khai minh bạch trước thị trường về hoạt động kinh doanh tín dụng của NHTM. Đó là khẳng định mạnh mẽ chức năng tập trung và điều tiết vốn nhàn rỗi, chủ yếu là đáp ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế. Mục tiêu là đến khi lập lại trật tự cơ cấu lãi suất và cơ cấu kỳ hạn tín dụng, tạo lập được ổn định kinh tế vĩ mô, thì NHTM phải dứt khoát quan điểm tạo điều kiện cho nguồn vốn trung - dài hạn chuyển vào TTCK thực hiện chức năng đích thực của nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế.
Việc gỡ bỏ quy định chặt chẽ đối với tín dụng cho lĩnh vực chứng khoán là một giải pháp hợp lý nhằm tạo ra sức cầu cho phát triển thị trường tiền tệ và chứng khoán. Bên cạnh đó, thực hiện cơ chế kiểm soát tín dụng dựa trên quản trị rủi ro và kiểm soát hiệu quả dòng tiền sẽ là tối ưu hơn cho cả ngân hàng lẫn TTCK. Việc đưa tín dụng chứng khoán ra khỏi khu vực phi sản xuất đã hỗ trợ thị trường khá lên, từ đó TTCK lại hỗ trợ trở lại cho DN và nền kinh tế.
Theo quan điểm đó, xét hiện tại, lãi suất giảm đã thực sự trao cơ hội cho TTCK hút nguồn. Tuy nhiên, cơ cấu kỳ hạn lãi suất vẫn còn một số khía cạnh cần tiếp tục điều chỉnh. Thí dụ lãi suất huy động vốn trung – dài hạn còn cao và có biên khá lớn so với lãi suất huy động vốn ngắn hạn. Hay như các NHTM còn giữ tỷ trọng cho vay trung – dài hạn nhiều hơn so với quy định của NHNN…
Ama Linh