Thủ tục hải quan: Phân loại rủi ro để hậu kiểm
Ảnh minh họa |
Theo Thông tư 128/2013/TT-BTC, nguyên tắc tiến hành thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan, quản lý thuế là “quản lý rủi ro”. Nhưng thực tế hoạt động kiểm tra, giám sát, hay thu thuế trước đang khá phổ biến, thưa ông?
Khó khăn chung đối với các DN xuất nhập khẩu hiện nay là họ phải nộp thuế nhập khẩu ngay trước khi thông quan hàng hóa. Đó là gánh nặng vì nhiều DN đang trong quá trình phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, rất quan tâm dòng tiền. Mà theo quy định trước đây thì thuế nhập khẩu DN có thể nộp trong vòng 30 ngày sau khi thông quan.
Tuy nhiên, lý do cũng xuất phát từ tình trạng thu ngân sách những năm trước bị nợ đọng thuế rất nhiều, đặc biệt là thuế nhập khẩu, ảnh hưởng đến cân đối thu chi ngân sách. Ngoài lý do khó khăn thực tế về tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, nhiều DN chây ỳ vì chỉ cần thông quan xong, lấy được hàng hóa đưa vào sản xuất và DN thương mại quay vòng nhanh thì “quên” trách nhiệm với ngân sách. Khi thực hiện kiểm tra sau thông quan, cơ quan hải quan không thể kiểm soát, đối chiếu được liệu hàng hóa mà DN nhập vào có đúng theo kê khai không. Chính vì vậy, Quốc hội và Chính phủ đặt ra mục tiêu kiểm soát nguồn thu chặt chẽ thông qua chính sách thu thuế nhập khẩu trước khi cho thông quan hàng hóa...
Bên cạnh yêu cầu thu thuế ngay trước khi thông quan để đảm bảo nguồn thu ngân sách, cơ quan hải quan cũng yêu cầu hàng hóa được kiểm định ngay tại cảng. Đây là yếu tố gây khó khăn cho DN nhập khẩu, đặc biệt là đối với những loại hàng hóa là cụm thiết bị, dây chuyền máy móc thiết bị, vì họ không có điều kiện lắp ráp ngay tại cảng để cơ quan kiểm tra xem nội dung trên tờ khai với hàng hóa nhập khẩu có khớp hay không…
Trong thời gian qua, cùng với kiến nghị từ phía cộng đồng DN, Deloitte Việt Nam, trong quá trình làm việc với Tổng cục Hải quan và Bộ Tài chính, cũng chia sẻ những vướng mắc nêu trên. Các cơ quan này đang thu thập các thông tin liên quan để nghiên cứu sửa đổi nghị định, thông tư liên quan để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN nhập khẩu về vấn đề kiểm định.
Chúng ta mong muốn đẩy mạnh thông quan điện tử. Nhưng với việc tăng cường kiểm tra và nộp thuế trước khi thông quan thì cải cách hành chính với vấn đề này có thể là bước lùi?
Trong vòng 5 năm nay, thủ tục kê khai hải quan điện tử đã được thực hiện. Nghĩa là, DN có thể kết nối với hệ thống mạng của cơ quan hải quan tại cảng, hoặc từ văn phòng để có thể kê khai ngay khi hàng lên tàu ở nước xuất khẩu, hoặc trước khi hàng cập cảng… Ở nhiều DN tuân thủ tốt, thậm chí khi bên bán báo hàng xuất lên tàu, ở bên này người mua có thông tin là kê khai điện tử và thực hiện nộp thuế luôn, khi tàu cập cảng thì chỉ ra nhận hàng.
Việc dồn ứ hàng hóa tại cảng do kiểm định hoặc chậm trễ trong xử lý tờ khai hàng nhập, thanh toán tiền thuế… có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, một trong các nguyên nhân là thói quen thiếu việc lập kế hoạch xử lý công việc, mà chỉ đợi đến lúc sát nút mới làm. Ví dụ như đối với quyết toán thuế năm, gần như ở tuần cuối cùng của hạn nộp tờ kê khai thuế (31/3), gần như tất cả các cục thuế địa phương đều làm việc 24/24, do người nộp thuế đến lúc đó mới thực hiện kê khai và nộp tờ khai.
Trong khi đó, nếu DN lập kế hoạch tốt thì có thể thực hiện kê khai và nộp tờ khai trong hạn định 90 ngày. Việc DN nào cũng cố, chần chừ thực hiện kê khai thuế khi tới hạn, sẽ dẫn đến ùn tắc và gây mệt mỏi cho cán bộ thuế trong quá trình xử lý và dễ phát sinh khoản phạt do chậm nộp tờ khai.
Để hỗ trợ DN nhập khẩu, cơ quan hải quan đã áp dụng nền tảng tiên tiến để tạo điều kiện cho DN nộp thuế thông qua hệ thống các NHTM có kết nối và nhận thanh toán thuế cho cơ quan hải quan. DN không nhất thiết phải nộp vào kho bạc mà có thể nộp tiền chuyển khoản ở các ngân hàng được chỉ định. Tuy nhiên, hiện nay có phát sinh ra trường hợp DN đến ngân hàng chuyển tiền vào để lấy chứng từ ngân hàng và scan gửi cho cơ quan hải quan để chứng minh đã nộp thuế. Họ lợi dụng việc mất thời gian nhất định để thực hiện chuyển tiền từ ngân hàng đang mở tài khoản đến ngân hàng do hải quan chỉ định.
Cơ quan Hải quan tin tưởng DN đã nộp thuế và cho thông quan. Nhưng DN lại ngay lập tức báo giữ tiền lại mà không chuyển cho cơ quan hải quan nữa, nên nhiều cơ quan hải quan hiện nay rất đau đầu. Có thể một vài DN lợi dụng điều đó nhưng lại hình thành rủi ro mới cho cơ quan hải quan. Như vậy, quy trình kiểm soát thu thuế qua hải quan sẽ bị thắt chặt hơn, DN sẽ chỉ được thông quan khi NH do hải quan chỉ định xác nhận việc chuyển tiền nộp thuế của DN.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu muốn giảm chi phí thủ tục hải quan
Thưa ông, liên quan đến vấn đề kiểm tra hàng hóa trước khi thông quan, nhiều Trung tâm kiểm định đề nghị được tham gia và có vai trò quyết định, nhưng đến nay hải quan chưa trả lời. Vì sao vậy?
Vấn đề kiểm định trước khi thông quan được đặt ra và áp dụng, do cơ quan hải quan gặp nhiều trường hợp sai lệch hồ sơ kê khai thuế và thực tế hàng hóa nhập. Trên thực tế, Deloitte cũng tham gia góp ý vào quá trình sửa đổi những quy định liên quan đến thuế và hải quan. Chúng tôi đã có những góp ý về mặt thực tiễn cũng như những nhìn nhận về mặt chuyên môn nghiệp vụ hải quan, thuế. Với những vướng mắc phát sinh, Bộ Tài chính sẽ tập hợp và trao đổi với các bộ, ngành để chỉnh sửa cho phù hợp.
Theo tôi, không nên cứ ra một chính sách mà thời gian ngắn sau sẽ phải sửa lại, mà trong quá trình nghiên cứu thay đổi chính sách, cơ quan quản lý cần tổng hợp tất cả vướng mắc để xác định đâu là nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, xem nó bắt đầu từ DN hay từ hệ thống quản lý. Lúc ấy mới thực hiện sửa đổi trên tinh thần tạo điều kiện thuận lợi và mang tính áp dụng thực tiễn cao, phù hợp cho cả 2 bên. Quan trọng nhất là DN phải xác định tuân thủ đầy đủ các quy định, làm tốt công tác hoạch định công việc, chiến lược kinh doanh trung hạn và dài hạn, vận dụng đưa được vào quy trình trong nội bộ, để có thể giảm thiểu được những vướng mắc và rủi ro phát sinh sau này.
Đối với Thông tư 128/2013/TT-BTC, Deloitte có ý kiến như thế nào?
Theo chúng tôi, cơ quan hải quan có thể nghiên cứu phân loại các mặt hàng, loại tờ khai để xem xét mức độ ưu tiên cho thông quan và hậu kiểm. Đối với mặt hàng nào nằm trong danh mục rủi ro hoặc theo kinh nghiệm của hải quan thường bắt gặp kê khai sai thì tách thành nhóm riêng. Hoặc phân loại theo nhóm đối tượng, các DN có quy mô nhỏ kinh doanh đa mặt hàng thì việc mà người ta thực hiện nhập khẩu có nhiều thay đổi. Những DN kinh doanh lâu năm, mặt hàng không có gì thay đổi thì việc nhập khẩu là tương đối ổn định, đối chiếu số liệu trên hệ thống giữa các cửa khẩu sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Theo đó, khi đưa ra phân loại và đưa vào hệ thống thì DN nhập khẩu có mã số thuế, mặt hàng phù hợp với phân loại ưu tiên của hải quan thì có thể thông quan ngay lập tức. Đấy là một số điểm chính mà Deloitte có ý kiến đóng góp cho Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan xem xét. Tuy nhiên, việc có thể thực hiện hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như phần mềm có thể kiểm soát một mặt hàng nhập khẩu ở nhiều cửa khẩu khác nhau hay không? Khi đưa thông tin tờ khai vào thì trong vòng 5 phút hải quan có thể đưa ra kết quả phân loại vào nhóm thông quan nhanh hay không?...
Trong tiến trình hiện đại hóa ngành, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu của ngành hải quan trong việc thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ về các giải pháp nhằm nâng cao tính cạnh tranh quốc gia, hy vọng các nội dung sẽ được cải thiện tốt hơn, tích cực hơn.
Trường Sơn thực hiện