Thúc đẩy chuỗi giá trị nông sản Việt Nam
Năm 2020, ngành nông nghiệp phải đối mặt với những khó khăn chưa từng có trong lịch sử, đại dịch bệnh Covid-19 làm đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu và gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hoạt động xuất, nhập khẩu, tiêu thụ nông sản của Việt Nam.
Bên cạnh tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu cũng gây thiệt hại không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó, trên thị trường, nhiều mặt hàng nông sản vẫn có xu hướng giảm và chịu tác động từ chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn, nhiều nước gia tăng áp dụng các biện pháp bảo hộ, hàng rào kỹ thuật…
Mặt khác, năm 2020 cũng là năm Việt Nam ký kết nhiều hiệp định thương mại quan trọng, đưa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sang một giai đoạn mới với nhiều cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, gia tăng triển vọng thu hút đầu tư.
Việc thực thi RCEP sẽ có nhiều nông sản Việt Nam được nhập khẩu chính ngạch vào Trung Quốc |
Theo ông Lê Duy Minh - Chủ tịch Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) được đánh giá là khu vực thương mại tự do, có quy mô lớn nhất thế giới tính đến thời điểm hiện tại, khi RCEP giúp nông sản Việt Nam bước vào một thị trường rộng lớn gồm 10 nước thành viên ASEAN và 5 quốc gia mà ASEAN đã ký hiệp định thương mại tự do (Australia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và New Zealand) chiếm gần tới 30% dân số thế giới (2,2 tỷ người) và 30% tổng sản phẩm nội địa GDP toàn cầu (26 nghìn tỷ USD).
Vì Việt Nam cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, nên xuất khẩu nông sản đóng vai trò đặc biệt quan trọng, tạo sự ổn định xã hội và nâng cao chất lượng sống cho người nông dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Với dự đoán thị trường các thành viên RCEP sẽ đạt tới hơn 100 nghìn tỷ USD trước năm 2050 nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ nội khối RCEP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan, từ đó gia tăng xuất khẩu tại khu vực này, đặc biệt là ở các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand.
Đây là các thị trường quan trọng của xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam trong những năm qua. Hiện tại, Trung Quốc đang là thị trường nông sản lớn thứ 2 của Việt Nam sau Mỹ. Năm 2020, xuất khẩu nông sản sang thị trường này ước đạt 10,36 tỷ USD, chiếm 25,14% tổng giá trị xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam.
Cùng với đó, ASEAN là thị trường lớn thứ 4 của nông sản Việt với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2020 ước đạt 3,69 tỷ USD. Còn Nhật Bản là thị trường xuất khẩu nông sản lớn thứ 5 của Việt Nam, chiếm gần 10% tổng kim ngạch. Năm 2020, xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản ước đạt 3,42 tỷ USD. Hàn Quốc cũng là thị trường lớn thứ 7, chiếm gần 7% tổng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng này. Năm 2020, xuất khẩu nông sản sang thị trường này ước đạt 2,34 tỷ USD. Trong bối cảnh đó, RCEP được cho là sẽ tạo tiền đề tốt mở ra cơ hội lớn cho nhiều mặt hàng nông sản, thúc đẩy hơn nữa phát triển kinh tế Việt Nam.
Một thuận lợi quan trọng khác của RCEP đối với hàng hóa Việt Nam là nếu trước đây, một số sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam do sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ nước nằm ngoài khối (phần lớn là từ Trung Quốc), coi như không đáp ứng yêu cầu xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan. Nay khi tham gia RCEP, các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc… đều là thành viên của RCEP, những rào cản này đã được xóa bỏ, ông Lê Duy Minh chia sẻ thêm.
Tham gia RCEP, các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, quy tắc xuất xứ giá trị trong khu vực RCEP cùng các biện pháp tạo thuận lợi thương mại của các nước thành viên cũng tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới. Trong đó, việc đẩy mạnh sản xuất hàng nông sản an toàn theo các tiêu chuẩn quốc tế sẽ ngày càng phổ biến, đồng nghĩa sẽ có thêm cho nhiều mặt hàng nông sản, rau quả hơn xâm nhập được vào thị trường này. Song, nếu muốn phát triển bền vững, khi xuất khẩu vào các quốc gia RCEP, các mặt hàng nông sản, rau củ quả của Việt Nam phải tuân thủ nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng, hầu hết những nước tham gia hiệp định đều có nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng thuộc thế mạnh của Việt Nam như nông, thủy sản... đồng thời, tiêu chuẩn nhập khẩu, thị hiếu tiêu dùng giữa các nước cũng khá tương đồng. Thêm nữa, khoảng cách địa lý của các nước nội khối không quá xa nên chi phí logistics thấp hơn, giao thông vận chuyển hàng hóa dễ dàng hơn so với các thị trường khác như Mỹ, châu Âu… Nhờ đó, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan, từ đó gia tăng xuất khẩu tại khu vực này, đặc biệt là ở các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand...
Ở chiều ngược lại, RCEP cũng sẽ tạo nhiều thách thức như phần lớn đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam nhưng năng lực cạnh tranh mạnh hơn. Chẳng hạn, hoa quả ngoại vừa có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp lại đạt vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ tràn vào thị trường Việt Nam, cạnh tranh trực tiếp với hàng nội địa, cộng với tâm lý chuộng hàng ngoại của người tiêu dùng Việt, nguy cơ hàng Việt lép vế là dễ thấy. Điều đó đặt các nhà sản xuất Việt Nam buộc phải cạnh tranh quyết liệt với một loạt hàng hóa mới có giá thành thấp hơn ngay tại sân nhà, ông Đặng Phúc Nguyên bổ sung thêm.
Các chuyên gia cho rằng, đã đến lúc, các doanh nghiệp phải tận dụng cơ hội để tự nâng mình lên, hoàn thiện mình hơn trong việc xây dựng các chuỗi sản xuất thành một hệ sinh thái hoàn thiện từ sản xuất cho tới xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần nhìn nhận các FTA nói chung, RCEP nói riêng là cơ hội và động lực để nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện việc quản lý chuỗi cung ứng, nâng cao năng lực cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu của thị trường ngày càng tốt hơn.