Thuốc của tâm hồn
Hợp với ông vì Phùng Gia Viên là một lương y - nghề thăm khám và bốc các thang thuốc làm từ cỏ cây mà chữa lành những tổn thương cho người. Hợp với tác phẩm của ông vì thơ, văn Phùng Gia Viên chính là những “thang thuốc”, chiết xuất từ trải nghiệm, thấu hiểu, bao dung để “chữa lành” và bồi bổ cho những tâm hồn.
Cuốn sách dày dặn hơn 430 trang do nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 2019 ấy, được trình bày với một bìa sách trong gam màu trầm, nền nã. Tất cả đều gợi lên sự giản dị, đầm ấm, mộc mạc.
Sinh năm Quý Tỵ (1953) tại Thanh Hóa, cho đến nay, Phùng Gia Viên đã xuất bản các tác phẩm Hoa mưa (1996), Hạ vắng (1999), Gió nhẹ (2004), Chiều rơi (2009), Cỏ ru (2014). Ngoài ra, ông còn góp mặt trong một số các cuốn sách in chung khác. Các quãng ngắt nhịp thời gian cho thấy điều thú vị, ấy là cứ 3 hoặc 5 năm, thì Phùng Gia Viên lại cho xuất bản một tập thơ, kể từ cuốn đầu tiên ra mắt vào năm 1996. Điều này kéo dài hơn 2 thập kỷ, tự nó đã cho thấy một sức viết bền bỉ, một năng lượng thơ dồi dào. Văn phong của ông luôn lấy sự thanh nhã, đôn hậu làm chủ đạo. Tất nhiên, để có sự thanh nhã mà không trở nên “màu mè” hay “diễn” thì hồn cốt của điều này chính là sự trung thành với những cảm xúc chân thật của bản thân tác giả, không chút gì gắng gượng. Và bao nhiêu năm cứ qua đi, mạch chảy hiền hòa của giọng thơ ấy, như dòng sông Chu quê ông vẫn âm thầm bồi đắp những bãi bờ phù sa.
Cuốn sách được chia làm 3 phần: Phần 1 gồm những bài thơ theo thể haiku - một thể thơ truyền thống từ Nhật Bản; Phần 2 là những bài thơ tinh tuyển từ những tập thơ đã xuất bản; Phần 3 là các phụ lục.
Ngay ở đầu Phần 1, chúng ta đã có thể hình hình dung về một nét đặc trưng của Phùng Gia Viên qua những lời đồng cảm sâu sắc của một người viết đã lâu năm. Ấy là mảng thơ haiku. “Quả thật, thơ haiku dễ làm, khó hay. Nhưng với tài năng có thực, tác giả đã ghi được tiếng lòng của mình vào tác phẩm, và gợi được lòng trắc ẩn của người đọc về một tiếng rao…”. Đó là chút tâm sự của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã khi đọc bài haiku “Lạc phố” của Phùng Gia Viên. Và khi thẩm thấu một số lượng không ít các bài thơ haiku trong tuyển tập này, hẳn bạn đọc cũng sẽ có cùng cảm nhận này.
Ở Phần 2, tác giả dành “đất” cho sự phóng khoáng của ngòi bút bằng các bài thơ tự do với nhiều thể thơ khác nhau. Trong đó, không hiểu có phải do chủ ý của tác giả hay không, mà có một tỷ lệ khá lớn thơ lục bát. Điều đó cũng đã làm nên một ấn tượng khá thú vị khi đọc tập thơ.
Người ta hay nói lục bát là “hòn đá thử vàng” của các nhà thơ Việt Nam, và đích thị là một “đặc sản” của thi ca Việt từ cổ chí kim. Làm thơ lục bát không khéo sẽ bị vần điệu dẫn dắt mà “lạc lối”. Hoặc giả nếu cố gắng để truyền tải ý tưởng mà “nội lực” không đủ “thâm hậu” thì lại cũng bị khiên cưỡng cả về từ ngữ lẫn thi tứ và thi ảnh. Lại nữa, làm thơ lục bát dễ bị “trơn tuột” với những lối mòn, khó mà “găm” vào lòng bạn đọc.
Và thú vị thay, những bài thơ lục bát trong tuyển tập này lại thường vượt ra ngoài những gì vừa nói ở trên. Chúng ta có thể dẫn ra đây không ít câu thơ hay và tinh tế mà không hề e ngại:
“Con chuồn chuồn ớt trên cành
Đỏ buồm rơi xuống chòng chành hai vai”
Phố trưa bóng ngắn - nắng dài”
(Lời ru)
“Rời ga tàu hú vội vàng
Hương thu phía ấy bay sang phố này”
(Không đề)
Hay
“Run run từ phía cơn mưa
Gậy bà khua đất thôn thưa đường làng”
“Đọt măng - củ sắn - chon von
Mũi kim khâu kín nỗi buồn xác xơ”
(Bà)
Không quá mất công để có thể tìm những câu thơ như thế trong tuyển tập!
Đọc cả tập thơ, khi gấp sách lại, thấy âm hưởng chủ đạo còn dào dạt mãi, là sự hồi tưởng, là những ký ức ấm nồng thời gian, tưởng như không bao giờ nguôi ngoai mặc cho biết bao thăng trầm.
Người thơ ấy là như vậy. Ông cứ thủ thỉ với chúng ta về những gì thân quen, ngỡ xa xôi mà vô cùng gần gũi, thân thuộc. Đọc thơ ông, thật ấm lòng, thấy tin yêu cuộc sống này biết mấy!