Tiếng gà lay gọi Tết xưa
Tiếng gà, tiếng gà? Mơ hồ tiếng gà. Sao không cong như lưỡi liềm, vòi hái; không vít vỏng như ngọn tre, cần câu mà vừa mới nhú lên đã cụt như mầm măng gặp bão? Ngắn. Không phải tiếng gà chọi gáy. Gà chọi gáy đành rằng ngắn, nhưng gắt gỏng và âm lượng lớn. Đằng này, tiếng gáy mảnh như của gà ri, mà lại ngắn như bị ai cắt ngang là điều lúc đầu tôi chưa thể lý giải được. Từ từ tỉnh dậy, tôi xác định được mình đang ngủ ở nhà mình, ở thành phố. Từ lâu lắm cả khu phố này không ai nuôi gà, thế mà đêm áp Tết lại nghe nhiều tiếng gà gáy. Vâng, những con gà đang cất tiếng gáy từ những chiếc lồng nhỏ do chủ nhà mới mua, hoặc được người thân ở quê gửi ra thành phố làm quà, phần lớn là cúng tất niên. Những con gà trống vốn quen vỗ cánh kiêu hãnh và gáy vang trên những đống rơm sừng sững, nay bị nhốt trong lồng hẹp, cánh không vỗ được, cổ không thể vươn cao nên tiếng gáy tắc nghẽn, khác thường… Không hiểu những con gà trống ấy gáy một cách vô thức hay kêu lên nỗi nhớ làng quê?
Hơn nửa thế kỷ rời cày cuốc, xa ruộng vườn để sống ở thủ đô, nhưng tôi luôn nhận mình là một gã nhà quê từ cách ăn, nếp nghĩ và cảm hứng, vui buồn. Vậy nên những tiếng gà ấy dễ dàng dắt tôi về gặp lại những cái Tết thời thơ ấu. Làng quê thời ấy Tết đến không có lệ mừng tuổi. Trẻ con thích nhất được bố mẹ may cho một bộ quần áo mới, dù chỉ là áo cánh, quần cộc vải khổ hẹp nhuộm nâu, mà nỗi sướng đem lại thì không com-lê, cà-vạt nào ngày nay có thể sánh được. Mặc áo Tết thật sướng, nhưng trước khi mặc, đứa trẻ nào cũng phải qua một “trận” tắm tất niên thật “khủng khiếp”. Mùa đông, lâu không tắm, cẳng chân mốc thếch, gãi đến đâu là xùi lên thành đường bụi trắng. Mẹ tôi nhặt đá vườn kê thành bếp, gom lá tre khô làm củi, nấu nồi nước hoa mùi khô lấy xuống từ gác bếp, rồi gọi lần lượt từng đứa con ra tắm ngay trên khoảng đất trống trong vườn, giữa những đợt gió mùa đông bắc mà cái nong, tấm phên không thể nào che chắn nổi. Những năm tháng xa quê tôi vẫn không sao quên được tiếng hai hàm răng va nhau cầm cập khi ngồi tắm, hơi thơm của nồi nước hoa mùi, và cảm giác sung sướng của mình khi hoàn thành “trận” tắm.
Tôi lớn dần lên qua những cái Tết trẻ con được theo mẹ đi chợ, để khi về hân hoan với trống bỏi và tò he. Ký ức tôi vẫn văng vẳng những tiếng tum tum từ chợ về làng. Mẹ đội thúng hàng Tết đi trước, qua đồng lúa mới cấy, mấy lần dừng lại chờ tôi đi chậm vì hai tay mải quay trống bỏi. Tò he là món quà đặc biệt, khi chơi chán rồi có thể nướng ăn, ngon hơn mọi đặc sản trên đời!
Làng tôi Tết năm nào cũng mở hội cờ người. Người làng bảo rằng, đánh đu, đá bóng là trò chơi của thanh niên, riêng hội cờ người, trai gái, trẻ già… ai cũng có phần trong đó. “Trai thanh, nữ tú” được chọn ngồi quân cờ là những cậu, những cô vừa bước lên khỏi ruộng, nùi rơm cầu ao rửa sạch chân bùn. Mặt con trai để “ nguyên hiện trạng” lông măng, giấy bao hương tô đỏ má và môi con gái. Hội cờ người ngày Tết của làng thường khai trương vào chiều mồng Một và có năm đến tận mồng Bốn, mồng Năm, tức kéo dài bốn, năm ngày liền. Làng chỉ sắm được một “bộ quân cờ”, tức mười sáu nam và mười sáu nữ, không có quân cờ dự bị, nên số trai gái đó ngồi trên sân cờ từ ngày này qua ngày khác, nhiều người ái ngại cho đám trẻ này, vì Tết không được đi đâu cả! Tôi may mắn cũng đã từng được chọn làm quân cờ, một con xe nam hẳn hoi, tả xung hữu đột theo lệnh người cầm quân, ngang dọc khắp sân. Cánh con trai đứa nào cũng mong được chọn làm con xe, nhưng con gái lại thích được chọn làm tướng nữ, vì như thế coi như được đánh giá đẹp nhất sân, lại được hóa trang quần áo của nữ tướng, ngồi oai phong dưới lọng che! Tướng nữ, tướng nam không chỉ oai phong so với các quân cờ khác, mà ngay kỳ thủ cầm quân trước khi vào trận cũng phải nhớ rằng: khi điều quân, không được phất cờ trước mặt tướng như đối với các quân cờ khác, mà chỉ nhẹ nhàng, từ tốn đề nghị tướng chuyển chỗ ngồi. Người cầm quân nào phạm lỗi này, một lần, hai lần thì bị nhắc nhở, nhưng nếu phạm đến lần thứ ba thì coi như thua cuộc. Một điều lý thú của đám quân cờ là bữa trưa và bữa tối, không về ăn ở nhà mình, mà liên hoan chung với nhau, mâm cỗ do các gia đình hảo tâm đài thọ, mỗi mâm chia đều số nam nữ, vừa nói chuyện, nhìn nhau mà ăn thì có gì ngon bằng!
Khi cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước xảy ra, chiến trường hút hết con trai con gái, lại bom đạn đêm ngày, nên ngày Tết không ai tính chuyện tổ chức hội cờ người nữa. Hòa bình lập lại, hội cờ Tết quê tôi khôi phục được vài năm, rồi mất hút, chỉ nằm trong ký ức của người làng…
Mấy năm nay, tôi không có dịp ăn Tết ở quê, mà chỉ nằm hình dung Tết quê một thuở. Người hoài cổ thường cho rằng, những gì thuộc về ngày xưa thì tốt đẹp hơn hiện tại. Với tôi và làng tôi thì không phải hoàn toàn như thế, nhất là những con đường làng. Làng Đông Bích của tôi nằm ở vùng đất trũng, sát chân núi Quỳ Sơn (Đô Lương, Nghệ An), hơi xa đường quốc lộ, nên là nơi sơ tán tránh máy bay lý tưởng của nhiều cơ quan trong cả hai cuộc chiến tranh. Thời kháng chiến chống Pháp, Hội Văn nghệ Liên khu Bốn do nhà thơ Lưu Trọng Lư làm chủ tịch, đóng hai năm ở làng, nên người làng quen biết nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi như Chế Lan Viên, Hải Triều, Thanh Tịnh, Đào Mộng Long, Hoàng Trung Thông… Và có lẽ đó cũng là một trong những lý do sau này có nhiều người làm thơ đến thế! Nhưng lúc này, tôi đang kể chuyện đường làng. Trong một bài thơ về quê hương, tôi từng viết: “Làng tôi nhỏ, lối vào làng cũng nhỏ/Ô tô về phải dừng lại đường quan”! Đường làng đã nhỏ, lại lầy lội, nhất vào dịp Tết mưa dầm. Người làng công tác bốn phương, một thời kinh hoàng đường làng khi về quê dịp Tết. Có những đoạn lầy lội như ruộng mạ sắp gieo, xe đạp không thể đi mà dắt cũng không được, chỉ có cách vác lên vai. Người ở xa về ăn Tết, muốn đi chúc Tết bà con chỉ có cách để giày dép ở nhà, chân lội bùn, bên cửa mỗi nhà có một chậu nước và chiếc gáo dừa, để khách rửa chân trước khi bước vào nhà! Quá khứ ấy không thể coi là tốt đẹp, ngay cả đối với những nhà hoài cổ! Vẫn làng quê ấy, những con đường đã được nắn thẳng, mở rộng, đổ dày bê tông, ô tô tết đưa khách đến tận nhà, không phải xe riêng thì taxi đặt hàng qua điện thoại. Có lúc tôi tự khuyên mình: thôi đừng quá tiếc hàng cau gầy guộc bên vệ cỏ, mà quên đi ý nghĩa đường làng hôm nay!
Có nhiều kỷ niệm vui về Tết làng xưa, và được người ta nhắc lại nhiều lần, nhưng cũng đừng quên chuyện buồn một thuở. Ở vùng nghèo như quê tôi, khoảng một phần tư gia đình mỗi năm thiếu ăn đến mấy tháng, nên không ít nhà Tết đến đã không còn gạo. Câu ca dao: “Cái Tết đã đến sau lưng/Con nít thì mừng, người lớn thì lo”, làng tôi một thời không ai không nhớ. Nhà càng nghèo, nỗi lo càng lớn, với họ, không phải lo sắm Tết, mà lo cho con cái có cơm ăn trong ba ngày Tết! Rồi áo quần nữa, thuở ấy vải đắt như vàng, quá nửa số dân không sắm nổi áo mới và dịp Tết, áo cũ vá víu chằng chịt, ngày Tết chẳng muốn ra khỏi nhà. Với con mắt người ngắm cảnh, hình như nông thôn thời xưa đẹp lắm, Tết xưa vui lắm, nhưng với những người từng sinh ra và vật lộn với làng quê, đói rét, dột nát và rách rưới còn theo bám hành hạ con người ngay cả trong dịp Tết… Đành rằng bỏ mất đi một số trò chơi truyền thống như chơi đu, hội cờ người, cờ thẻ… là điều đáng tiếc, nhưng không vì thế mà không vui với Tết nay khi nhà cửa khang trang, người dân no đủ, mâm cỗ thịnh soạn, lòng người hồ hởi, quần áo đủ màu sắc với đời sống khá đủ tiện nghi thời công nghiệp. Bù trừ đi, với tôi, Tết nay hơn Tết xưa nhiều lắm!
Lại tiếng gà! Tiếng gà lay gọi Tết xưa, nhắc tôi nhớ lại cảnh, tình hội cờ người của làng sau ngày cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc qua bài thơ của mình, mời các bạn cùng đọc lại:
Đợi em trong hội
Vẫn là em đó ư em
Mà sao lạ cả người quen thế này?
Phấn hồng đôi má hồng say
Son tô môi thắm, nét mày kẻ cong
Hội cờ đang buổi người đông
Nhìn em muốn gọi mà không tiện lời
Ngày xuân biết mấy cuộc chơi
Anh vòng quanh hội cờ người chồn chân
Giận mình không biết cầm quân
Được vào trong cuộc cho gần em hơn.
Mười năm ăn Tết Trường Sơn
Có năm năm ấy mở đường cùng em
Bom vùi lại đội đất lên
Năm năm thức biết bao đêm với đường
Thương nhau chưa dịp nói thương
Gọi nhau bằng tiếng đồng hương nghĩa tình
Người xinh, tên gọi cũng xinh
Tên em anh nhắc một mình ngày xa.
Bây giờ là Tết quê ta
Bao nhiêu màu sắc phô ra hội cờ
Nhìn em như thể người xưa
Bay bay áo thắm, phất phơ khăn đào
Qua nhiều năm tháng gian lao
Hội xuân em trẻ giữa bao nhiêu người.
Tết này anh có về chơi
Thăm quê, tìm gặp em - người đồng hương
Thương nhau đã tiện nói thương?
Anh phân vân suốt chặng đường ngày xuân.
Nhìn em định gọi mấy lần
Em hay đâu, ở giữa sân hội cờ
Nôn nao từng khắc từng giờ
Ngày vui anh đứng đợi chờ niềm vui.