Tìm động lực mới để phục hồi kinh tế
WB: Tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 có thể đạt 2,8%, cao thứ 5 thế giới |
Vẫn tăng trưởng ấn tượng
Báo cáo Điểm lại của WB với tiêu đề: “Trạng thái bình thường mới ở Việt Nam sẽ ra sao? Tác động kinh tế của Covid-19”, công bố ngày 30/7, nhận định: Kinh tế Việt Nam dù bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi Covid-19 trong nửa đầu năm 2020, song vẫn có sức chịu đựng tốt và viễn cảnh phục hồi trước mắt và trong trung hạn là tích cực. “Trong trường hợp tình hình thế giới được từng bước cải thiện, các hoạt động của kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi vào nửa cuối của năm 2020 giúp cho nền kinh tế đạt tăng trưởng khoảng 2,8% cho cả năm 2020 và 6,8% trong năm 2021. Nếu tình hình bên ngoài kém thuận lợi hơn, nền kinh tế sẽ tăng trưởng khoảng 1,5% trong năm 2020 và 4,5% trong năm 2021”, báo cáo dự báo.
Ông Jacques Morisset - Kinh tế trưởng WB tại Việt Nam cho biết, nếu đạt mức tăng trưởng 2,8% như dự báo, Việt Nam sẽ là quốc gia có tăng trưởng đứng thứ năm trên thế giới trong năm 2020. “Nếu so với tăng trưởng các năm trước đây, mức đó là rất thấp nhưng nếu so sánh với các quốc gia khác trên thế giới, rõ ràng đây là mức tăng trưởng rất ấn tượng trong bối cảnh đại dịch”, chuyên gia này nhấn mạnh.
Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng cho rằng những ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế là không hề nhỏ, thể hiện qua những con số như tăng trưởng kinh tế nửa đầu năm 2020 chỉ 1,8%; trên 30 triệu người lao động bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đại dịch, trong số đó khoảng 8 triệu người bị mất việc làm/thu nhập; cộng đồng DN và nhiều ngành, nghề chịu thiệt hại nặng…
Theo bà Stefanie Stallmeister - Quyền Giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam, các biện pháp ứng phó sớm - theo dõi và xét nhiệm có mục tiêu, công bố thông tin minh bạch, kết hợp với các chiến dịch truyền thông sáng tạo - cho thấy hiệu quả rất cao trong kiểm soát Covid-19 của Việt Nam đến thời điểm này. Nhờ đó, cuộc sống và các hoạt động gần như đã quay lại trạng thái bình thường như trước khi diễn ra đại dịch.
“Nhưng nếu nói trạng thái bình thường đã được khôi phục nhanh chóng thì có lẽ chưa khách quan. Thực chất, chúng ta phải ghi nhận rằng Việt Nam, cũng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, vẫn có khả năng bị tổn thương bởi đại dịch trong điều kiện chưa có vắc-xin để bảo vệ”, bà Stefanie Stallmeister nói và dẫn chứng đợt lây nhiễm cộng đồng mới bùng phát gần đây tại Đà Nẵng, giống như ở Bắc Kinh hoặc Melbourne trước đó, một lần nữa nhắc nhở về rủi ro những đợt sóng Covid-19 mới có khả năng tiếp tục xảy ra.
Cần động lực mới cho phục hồi
Bà Stefanie Stallmeister cũng cho biết, thông điệp mà Báo cáo Điểm lại lần này muốn mang tới là không nên tư duy theo hướng trạng thái bình thường sẽ quay lại như trước đây. Thay vào đó, cần xác định xem trạng thái bình thường mới sẽ ra sao, khi đại dịch làm thay đổi cách thức mọi người sinh sống, làm việc và giao tiếp với nhau. “Việt Nam sẽ phải vận động trong một thế giới đầy bất định cả ở trong nước và bên ngoài trong thời gian tới. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng các nhà hoạch định chính sách sẽ phải tìm hướng thay thế cho những động lực tăng trưởng truyền thống của quốc gia, gồm dựa vào sức cầu ở nước ngoài và tiêu dùng trong nước – hiện đang bị yếu đi”, bà Stefanie Stallmeister nói.
Sức cầu từ bên ngoài và tiêu dùng trong nước đóng góp đến trên 75% cho tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2019. Tuy nhiên, trong thời gian tới, hai động lực trên khó có thể sớm phục hồi về các mức trước khủng hoảng do đại dịch này vẫn diễn biến phức tạp. Do đó, thách thức chính của Việt Nam lúc này là phải tìm ra động lực mới để hỗ trợ phục hồi trong ngắn và trung hạn. Để tránh bẫy kinh tế của Covid-19 và có thể quay lại quỹ đạo tăng trưởng cao và bao trùm, báo cáo của WB khuyến nghị ba hướng hành động và giải pháp có tính bổ trợ nhau cần sớm thực hiện.
Thứ nhất là cần cân nhắc và thận trọng từng bước gỡ bỏ hạn chế đi lại quốc tế, bắt đầu với các quốc gia an toàn với Covid-19. Mục tiêu là nhằm đẩy mạnh hoạt động du lịch, cũng như để thu hút các nhà đầu tư tiềm năng và chuyên gia kỹ thuật. “Tuy nhiên, hướng hành động như vậy đòi hỏi phải theo dõi thận trọng vì mở cửa nền kinh tế phải được thực hiện sao cho không gây nguy hại cho những thành quả y tế đạt được đến thời điểm này”, báo cáo nhấn mạnh.
Thứ hai là đẩy nhanh triển khai chương trình đầu tư công hiện hành nhằm tăng cầu trong nước. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả biện pháp này cần đảm bảo nguồn lực được điều chuyển đến những dự án đem lại tác động tích cực lớn nhất cho cả nền kinh tế và việc làm, đồng thời giảm thiểu được tổn thất tài chính và kỹ thuật trong quá trình triển khai.
Thứ ba là hỗ trợ khu vực tư nhân, đặc biệt là các DN, ngành nghề bị ảnh hưởng nặng nề nhất như du lịch, chế biến chế tạo cho xuất khẩu, thông qua hỗ trợ tài chính kết hợp với các chính sách khuyến khích thông minh. Tuy nhiên, hướng này cần được thực hiện thận trọng vì không phải DN nào cũng bị ảnh hưởng như nhau nên yêu cầu đặt ra là phải lựa chọn đối tượng là những DN hoặc ngành bị ảnh hưởng nhất để tránh lãng phí nguồn lực công.
Ngoài ra, Covid-19 cũng đem lại cơ hội đặc thù để hướng tới nền kinh tế “không tiếp xúc” thông qua đẩy mạnh thanh toán công nghệ số, giáo dục trực tuyến, khám chữa bệnh từ xa, chia sẻ dữ liệu số hóa và qua đó giúp đáp ứng nhu cầu đang tăng nhanh về dịch vụ có chất lượng của tầng lớp trung lưu trong nước và Việt Nam cần tận dụng tốt cơ hội này.
Bà Stefanie Stallmeister tin tưởng, Việt Nam đang có cơ hội đặc biệt nhằm nâng tầm dấu ấn của mình trong nền kinh tế toàn cầu cả về thương mại và đầu tư, đồng thời nhằm thúc đẩy nghị trình cải cách trong nước, bao gồm chuyển đổi số và quản lý tài nguyên bền vững. “Trong nguy luôn có cơ. Tôi kỳ vọng, cuộc khủng hoảng Covid-19 lần này khác với những lần trước đó và nếu được quản lý tốt có thể giúp Việt Nam tiến nhanh tới ước vọng thịnh vượng và trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045”, Quyền Giám đốc WB tại Việt Nam nói.