Tín dụng chính sách trong dòng chảy 65 năm
Mốc son tươi thắm của tín dụng chính sách | |
Tín dụng chính sách bám sát thực tiễn | |
Tín dụng chính sách: Góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo |
Từ Ngân hàng Phục vụ người nghèo…
Thời điểm thập niên 90 của thế kỷ XX - những năm tháng đất nước ta vừa tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập quốc tế, vừa tập trung thực hiện chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Cùng khi đó, việc hỗ trợ tài chính giúp hộ nghèo chủ yếu theo hai phương thức: tín dụng Nhà nước và tín dụng ngân hàng.
Trong đó, nguồn tín dụng Nhà nước thì do nhiều cơ quan, đoàn thể quản lý và cho vay với nhiều mức lãi suất khác nhau dẫn đến sự chồng chéo, kém hiệu quả. Còn nguồn tín dụng ngân hàng lại triển khai cho vay theo lãi suất thị trường, đòi hỏi người vay phải có tài sản thế chấp, cho nên hộ nghèo rất khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của NHTM.
Tín dụng chính sách 20 năm qua đã và đang phát huy hiệu quả |
Trước thực tại khách quan trên, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ cũng như bản thân những người làm ngân hàng mong muốn có một TCTD đặc thù thuộc loại hình ngân hàng chính sách hoạt động vì mục tiêu xóa đói giảm nghèo, đồng thời từng bước tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại.
Căn cứ vào bối cảnh và điều kiện kinh tế đất nước, lãnh đạo ngành Ngân hàng đã lựa chọn bước đi đầu tiên là chấp thuận và ủng hộ khởi xướng của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam: Thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo. Quỹ được thành lập và chính thức hoạt động từ tháng 3/1995 bằng vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, góp vốn của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Sau 5 tháng hoạt động, Quỹ đã được nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân đón nhận, cụ thể đã cho gần 500 nghìn hộ nghèo trên phạm vi toàn quốc được vay vốn chính sách đầu tiên.
Tuy nhiên, do nguồn vốn của Quỹ quá nhỏ - 400 tỷ đồng trong khi số hộ nghèo cần vay vốn lại quá lớn, lên đến 4 triệu hộ với nhu cầu sử dụng vốn tới hàng chục nghìn tỷ đồng nên đã xảy ra tình trạng Quỹ phải cho vay theo kiểu “chia đều”, dàn trải, có nơi mỗi hộ chỉ được vay trên dưới 200 nghìn đồng, không đủ trang trải nhu cầu đầu tư cho sản xuất.
Từ thực trạng này, lãnh đạo ngành Ngân hàng nhận thấy trách nhiệm phải giải quyết nhu cầu vay vốn của hàng triệu hộ nghèo. Việc thành lập một ngân hàng thay thế Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo là đòi hỏi tất yếu. Có như vậy tổ chức này mới đủ khả năng tập trung huy động các nguồn vốn lớn, đáp ứng chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị về mọi mặt, được đích thân Thủ tướng Chính phủ cho phép, cùng các bộ, ngành, các địa phương hưởng ứng giúp đỡ NHNg, mang biểu trưng lô gô trái tim hình hoa sen hồng thắm đã chính thức khai trương hoạt động vào năm 1996.
…Đến Ngân hàng Chính sách xã hội
Bước sang thế kỷ XXI, cả nước ta đã tập trung sức phát triển nền kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập quốc tế và tiếp tục đẩy mạnh công cuộc giảm nghèo.
Theo đó, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trương nhất quán cơ cấu lại toàn bộ hệ thống TCTD. Từng bước tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại. Tập trung nguồn lực do Nhà nước huy động vào một TCTD duy nhất, nhằm tạo nên sức mạnh có tính đột phá, góp phần giảm nghèo nhanh, bền vững.
Ngày 4/10/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 131/2002/QĐ - TTg thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại NHNg để thực hiện Nghị định 78/2002/NĐ-CP của Chính phủ nhằm tập trung các nguồn vốn ngân sách cho người nghèo và các đối tượng chính sách vào một đầu mối là NHCSXH.
Ngay từ năm đầu tiên hoạt động, cùng với việc thiết lập hệ thống văn bản quy chế điều hành, quy trình nghiệp vụ tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ, đồng bộ và hoàn thành nhiệm vụ bàn giao tài sản, nguồn vốn chính sách từ các NHTM vào một đầu mối, NHCSXH đã triển khai bài bản và hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách của Nhà nước.
Nếu như năm 2003, NHCSXH thực hiện 5 chương trình tín dụng chính sách (cho vay hộ nghèo, giải quyết việc làm, HSSV, làm nhà trả chậm vùng đồng bằng sông Cửu Long, xuất khẩu lao động) thì đến giai đoạn 2011 - 2015, NHCSXH đã triển khai thực hiện thành công trên 20 chương trình tín dụng chính sách. Tính đến hết năm 2015, tổng nguồn vốn của NHCSXH đạt 146.460 tỷ đồng, tăng 56.344 tỷ đồng so với năm 2011, tăng trưởng bình quân hàng năm 12,5%.
Từ nguồn vốn này trong những năm qua đã có gần 25 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn ưu đãi từ NHCSXH; dư nợ bình quân một hộ tăng 7,5 lần, góp phần giúp trên 3,6 triệu lượt hộ vượt qua ngưỡng nghèo, thu hút tạo việc làm cho trên 11,8 triệu lao động…
Để có những thành tựu về tạo lập nguồn vốn và tổ chức thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách của Nhà nước, NHCSXH đã xây dựng được mô hình tổ chức và phương thức quản lý tín dụng đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta.
Mạng lưới hoạt động của NHCSXH được xây dựng từ Trung ương đến tỉnh, huyện, với 63 chi nhánh cấp tỉnh, 629 phòng giao dịch cấp huyện, cùng đội ngũ hơn 9.000 cán bộ, viên chức tinh thông nghề nghiệp tín dụng chính sách. Mạng lưới hoạt động của NHCSXH còn được thể hiện ở gần 11 nghìn Điểm giao dịch xã, tạo điều kiện thuận tiện nhất cho khách hàng là hộ nghèo và gia đình đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn chính sách.
Cùng với đó là thủ tục, phương thức cấp tín dụng, thực hiện uỷ thác thông qua 4 tổ chức hội, đoàn thể: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên và thành lập hệ thống gần 200 nghìn Tổ tiết kiệm và vay vốn trên địa bàn cả nước.
Hiệu quả đặc biệt trong mô hình hoạt động này của NHCSXH là đã huy động được sức mạnh tổ hợp của cả hệ thống chính trị vào cuộc, chuyển tải nguồn vốn chính sách đến kịp thời các đối tượng thụ hưởng, giúp họ biết sử dụng vốn vay vào sản xuất, giảm nghèo bền vững, nâng cao cuộc sống.
Và vị thế, niềm tin trong lòng dân
Hòa trong dòng chảy 65 năm phát triển Ngân hàng Việt Nam, tín dụng chính sách đã trọn vẹn 20 năm đồng hành với người nghèo và các đối tượng chính sách. Ngay từ những ngày đầu thành lập NHCSXH tập trung huy động các nguồn lực tài chính để tạo lập nguồn vốn, đồng thời vừa mở rộng, vừa tổ chức thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách.
Năm 2002 tỷ lệ hộ nghèo cả nước ở mức 14,3%. Đến năm 2014, theo kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cả nước còn 1.442.261 hộ nghèo (tỷ lệ 5,97%). Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh có đóng góp lớn của NHCSXH.
Những thành tựu của NHCSXH được ghi nhận không chỉ từ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước qua việc tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì; nhiều bằng khen, giấy khen cho tập thể, cá nhân của các cấp các Ngành…
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đánh giá: “Hoạt động tín dụng chính sách do NHCSXH thực hiện là một giải pháp có tính nhân văn sâu sắc và phù hợp với thực tiễn đất nước” (Chỉ thị 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội). Song phần thưởng cao quý và quan trọng hơn có lẽ chính sự tin tưởng, yêu mến của người dân.
Cuộc hành trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững của nước ta vẫn đang tiếp diễn. NHCSXH luôn bám sát các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về giảm nghèo bền vững, tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 40 của Ban Bí thư Trung ương, tập trung huy động mọi nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn, giải ngân các Chương trình tín dụng được Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó ưu tiên cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các huyện nghèo theo Chương trình 30a đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo phương thức cấp tín dụng chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận dễ dàng với các dịch vụ của NHCSXH.