Tín dụng nông nghiệp cần đòn bẩy
Thời gian qua, một số NHTM Nhà nước mạnh dạn đưa ra các gói tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn (NN-NT). Chẳng hạn, đầu 2014, BIDV đưa ra gói tín dụng 1.000 tỷ đồng với lãi suất cho vay ưu đãi 7-8%, phục vụ các khách hàng là đại lý thu mua lúa gạo nông sản, vật tư nông nghiệp; Agribank triển khai gói tín dụng 10.000 tỷ đồng để cho vay xuất nhập khẩu nông sản với lãi suất từ 6-8%... Tuy nhiên, ngoài việc đẩy mạnh cho vay theo hình thức truyền thống hầu như các NH vẫn đang khá dè dặt trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, đặc biệt là các sản phẩm có chiều sâu, cần đầu tư dài hạn.
Phần lớn các đơn vị và hộ dân tham gia bảo hiểm đều vay vốn NH |
“Tại anh, tại ả”
Theo phân tích của PGS.TS Tô Ngọc Hưng, nguyên Giám đốc Học viện NH, hiện nay xét về số lượng các loại hình dịch vụ sẵn có, tính hiệu quả và chi phí của các dịch vụ tài chính thì chất lượng tiếp cận của các NHTM đang ở mức thấp. Đặc biệt, nguồn tài chính trung và dài hạn dành cho mọi đối tượng không sẵn có. Hơn nữa, các vấn đề về chính sách, pháp lý và thể chế đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, tạo ra nguy cơ kém bền vững cho các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn các dịch vụ sẵn có của các loại hình dịch vụ này.
Ông Hưng cũng cho rằng, riêng về nguồn nhân lực phục vụ cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính nông thôn hiện nay cũng còn khá hạn chế. Ngay cả Agribank là một trong những NH đi đầu trong lĩnh vực tín dụng NN-NT thì vẫn chưa có đủ nhân sự để phát triển các dịch vụ mới ngoài các sản phẩm cho vay truyền thống.
Đồng quan điểm, đại diện Cơ quan Thanh tra giám sát NH (NHNN), ông Nguyễn Hữu Nghĩa cho rằng, nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng “nghẽn mạch” tín dụng ở khu vực NN-NT là vì hiện nay “các NHTM, trong đó gồm cả các NH lớn, NH quốc doanh cũng không dám mạo hiểm đầu tư dài hạn tại ĐBSCL. Họ chỉ giải ngân vào những lĩnh vực có khả năng sinh lợi ngắn hạn, chu kỳ thu hồi vốn nhanh. Phần lớn (vốn) tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chính”.
Tuy nhiên, ông Nghĩa cũng cho rằng, nếu đổ hết cho phía NH thì không công bằng và chưa khách quan. Bởi thực tế hiện nay ở khu vực ĐBSCL sự yếu kém trong giao thương khiến nhiều nhà đầu tư (trong đó có NH) ái ngại. Tình trạng mua bán không có hợp đồng bằng văn bản diễn ra khá phổ biến trong khi năng lực quản lý điều hành của các DN rất hạn chế. Đặc biệt là khối DNNVV hầu như không đủ khả năng đánh giá diễn biến thị trường và không kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh khi thị trường biến động mạnh.
Địa phương phải chủ động
Theo TS. Khuất Duy Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Thi đua – Khen thưởng (NHNN) để thúc đẩy các TCTD mở rộng các sản phẩm dịch vụ tín dụng đối với lĩnh vực NN-NT, một trong những việc mà các địa phương cần phải chủ động làm là cần có cơ chế để hình thành các “DN nông nghiệp” mà người nông dân vừa là “công nhân” vừa là chủ sở hữu với tư cách là người góp vốn bằng đất đai. Trong khi đó, đối với các TCTD thì cần có chính sách tạo điều kiện để mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm nhất là tài chính vi mô các khu vực khó khăn tại ĐBSCL.
Một cách cụ thể hơn, ông Nguyễn Danh Lương, Phó tổng giám đốc Vietcombank cho rằng, để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực NN-NT, tất nhiên các chi nhánh Vietcombank sẽ tiếp tục xem xét mở rộng mạng lưới và định hướng một số sản phẩm tín dụng mới phù hợp với nhu cầu vốn. Tuy nhiên, bản thân các DN và các cơ quan quản lý nhà nước tại các địa phương cũng cần phối hợp.
Về phía DN nếu muốn vay vốn ít phụ thuộc vào tài sản thế chấp thì cần chú trọng nâng cao chất lượng quản trị, duy trì cơ cấu tài chính cân đối, quản lý chặt chẽ dòng tiền và minh bạch trong báo cáo tài chính. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua các hiệp định thương mại quốc tế để DN thuận lợi trong việc ký kết hợp đồng có nhu cầu luân chuyển dòng vốn.
Đứng từ góc độ quản lý NH tại địa phương, ông Đoàn Vĩnh Tường, Giám đốc NHNN Chi nhánh Khánh Hòa cho rằng, để tăng cường mở rộng đối tượng cho vay lớn trong lĩnh vực NN-NT, các TCTD nên có kế hoạch tiếp cận các hợp tác xã kiểu mới. Ông Tường đánh giá, khi cho vay vào các hợp tác xã kiểu mới, các đầu mối giao dịch với NH sẽ giảm hàng trăm lần. Các hợp tác xã có thể đứng ra vay hoặc bảo lãnh vay cho xã viên. Điều đó sẽ giúp các NH giảm thiểu rủi ro, lãi suất cho vay và chi phí giao dịch theo đó sẽ giảm được.
Đóng góp thêm cho những giải pháp mở rộng tín dụng nông nghiệp ở khu vực ĐBSCL, ông Phan Huy Khang, Tổng giám đốc Sacombank cho rằng, một trong những chính sách hỗ trợ cần được các địa phương và bộ ngành tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đó là chính sách bảo hiểm nông nghiệp. Sau 3 năm (2011-2013) đã có khoảng trên 300.000 hộ dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia Chương trình thí điểm thực hiện bảo hiểm nông nghiệp. Phần lớn các đơn vị và hộ tham gia bảo hiểm đều là những đơn vị có vay vốn NH. Chính vì vậy chính sách này cần được đánh giá và hoàn thiện để tiếp tục nhân rộng trong các năm tới.
DN nếu muốn vay vốn ít phụ thuộc vào tài sản thế chấp thì cần chú trọng nâng cao chất lượng quản trị, duy trì cơ cấu tài chính cân đối, quản lý chặt chẽ dòng tiền và minh bạch trong báo cáo tài chính. |