Tổng cầu yếu, tổng cung kém
Cung - cầu đều yếu
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG) vừa báo Chính phủ: Trong bối cảnh tổng cầu của nền kinh tế còn đang yếu, vốn tín dụng chưa cho thấy dấu hiệu được cải thiện, cần phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ giải ngân vốn đầu tư phát triển từ NSNN nhằm hỗ trợ tổng cầu, đặc biệt là tập trung đẩy mạnh giải ngân trong 2 quý đầu năm 2013.
Tổng cung, tổng cầu yếu cũng được chỉ ra trong báo cáo mới nhất của Ngân hàng HSBC. Cụ thể, chỉ số PMI™ tháng 2/2013 đã giảm xuống mức 48,3% điểm từ mức 50,1 điểm trong tháng 1. Đây là lần thứ hai trong ba tháng qua PMI thấp hơn 50 điểm và HSBC cho rằng “báo hiệu có sự giảm sút” và là mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 8 năm ngoái.
Cũng theo khảo sát của HSBC, sản lượng sản xuất và số lượng đơn đặt hàng mới đều giảm trong tháng 2 chứng tỏ cầu yếu và do hàng tồn kho ở một số DN đang “vượt mức” số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã giảm tháng thứ mười liên tiếp.
Tổng cầu yếu thể hiện rõ ở việc tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ nếu loại trừ yếu tố giá, chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2012.
Tổng cầu yếu, tổng cung kém còn được nhìn thấy trên diễn biến vốn đầu tư toàn xã hội: Dư nợ tín dụng tính đến 19/2 đã giảm 0,16% (tương đương với mức giảm khoảng 18 - 20.000 tỷ đồng vốn tín dụng ngân hàng so với cuối năm 2012); Tốc độ giải ngân vốn đầu tư phát triển từ NSNN còn khá chậm, 2 tháng chỉ giải ngân khoảng 20.000 tỷ đồng, tương đương 10,5% kế hoạch năm, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm 2012.
Cẩn trọng lạm phát
UBGSTCQG cho rằng lạm phát chưa thực sự đáng ngại nhưng đã tăng 2,6% so với đầu năm nên cũng cần cảnh giác để kiềm chế ở dưới mức 6,8% như mục tiêu của Chính phủ đặt ra.
Phân tích 2 nhân tố chính tác động đến lạm phát của Việt Nam trong năm 2013, UBGSTCQG cho rằng: Yếu tố cầu kéo không quá lớn do tổng cầu còn khá yếu, lạm phát chi phí đẩy chưa đáng lo ngại do giá cả hàng hóa thế giới sẽ tương đối ổn định trong năm 2013 nên việc kiểm soát lạm phát chi phí đẩy của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào chính sách quản lý giá.
Theo tính toán của UBGSTCQG, nếu VND giảm giá 3% sẽ làm CPI tăng thêm khoảng 0,3-0,4%. Trong khi đó, nếu giá điện tăng 10% thì CPI tăng thêm 0,4% và giá xăng khoảng 5% thì CPI tăng thêm 0,1%-0,15%. Như vậy, chỉ tính riêng 3 yếu tố này nếu được điều chỉnh vào cùng thời điểm sẽ góp phần làm CPI tăng khoảng 0,8-1%.
Những phân tích này cho thấy, việc điều chỉnh tỷ giá cũng như giá điện, nước và các dịch vụ công khác cần phải rất thận trọng và có sự phối hợp chặt chẽ vì tuy ảnh hưởng về mặt định lượng đến lạm phát tổng thể là không quá lớn nhưng lại gây tác động lớn lạm phát kỳ vọng.
Bên cạnh đó yếu tố tiền tệ đang tạo nên những áp lực nhất định đến lạm phát vì việc điều chỉnh chính sách tiền tệ trong giai đoạn cuối năm 2012, với độ trễ 5 tháng thì sẽ có tác động nhất định đến lạm phát trong thời gian tới. Tính toán chỉ tiêu lạm phát lõi của UBGSTCQG cho thấy khá rõ nét về điều này. Lạm phát cơ bản sau khi được duy trì ổn định quanh mức 8% trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 8/2012 đã bắt đầu xu hướng tăng dần lên mức 10% trong khoảng từ tháng 9 đến tháng 11/2012 và duy trì ở mức 12% kể từ tháng 12 cho đến nay.
“Do đó, việc thực hiện các kế hoạch giải cứu bất động sản theo Nghị quyết 01 và 02 và quá trình xử lý nợ xấu cũng cần phải tính đến lượng tiền ra lưu thông để không ảnh hưởng nhiều đến mục tiêu lạm phát của cả năm 2013”. Ủy ban lưu ý. Theo các Nghị quyết này, có khoảng 20 - 40 ngàn tỷ đồng hỗ trợ cho các NHTM Nhà nước thông qua tái cấp vốn với lãi suất hợp lý và thời hạn tối đa 10 năm.
Vì vậy Ủy ban lưu ý, lạm phát chi phí đẩy là nhân tố cần đặc biệt lưu tâm đối với việc điều hành chính sách trong thời điểm hiện nay. Bên cạnh đó, các biện pháp, chính sách nhằm xử lý nợ xấu và giải cứu bất động sản để nâng tổng cầu của nền kinh tế cũng cần phải cẩn trọng tính đến áp lực lạm phát trong năm nay nhằm quyết tâm thực hiện kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định trong trung và dài hạn.
Tuy nhiên, “Mục tiêu kiềm chế lạm phát được đặt lên hàng đầu nhưng cùng với đó cũng cần cân bằng mục tiêu ổn định vĩ mô với hồi phục tăng trưởng kinh tế trong năm bản lề 2013 của kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm giai đoạn 2011-2015”, Ủy ban khuyến nghị.
Tỷ giá dao động chỉ là nhất thời
Về chính sách tỷ giá, quan điểm của Ủy ban là ủng hộ việc điều hành tỷ giá của NHNN, ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đồng thời hướng tới hài hòa với mục tiêu trung hạn: hỗ trợ xuất khẩu, cân bằng đối ngoại. Do vậy chưa cần thiết và chưa nên đặt vấn đề điều chỉnh tỷ giá (khi xuất khẩu vẫn tăng khá và kiểm soát lạm phát vẫn còn không ít thách thức).
“Tỷ giá hối đoái những ngày đầu năm Quý Tỵ đã nhất thời tăng đột biến do tâm lý, nhu cầu thực về ngoại tệ không lớn. Thị trường ngoại hối hiện vẫn đang ghi nhận nhiều dấu hiệu tích cực như dự trữ ngoại hối ở mức khá cao, xuất siêu tiếp tục đạt khá, thị trường ngoại tệ tự do được kiểm soát khá chặt chẽ và chỉ hoạt động ở quy mô nhỏ. Tỷ giá sẽ sớm trở lại ổn định”, Ủy ban nhận định. Tuy nhiên khi mục tiêu kiểm soát lạm phát trở nên hiện thực hơn thì cần thiết xem xét điều chỉnh tỷ giá để giảm bớt sức ép điều chỉnh tỷ giá trong trung hạn. TS Nguyễn Đình Cung cũng đồng quan điểm này.
Về chính sách tài khóa, trong bối cảnh tổng cầu của nền kinh tế còn đang yếu, vốn tín dụng chưa cho thấy dấu hiệu cải thiện, cần phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ giải ngân vốn đầu tư phát triển nhằm hỗ trợ tổng cầu, đặc biệt là tập trung đẩy mạnh giải ngân trong 2 quý đầu năm cho những dự án đã có kế hoạch hoàn thành trong năm 2013. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thu NSNN khó khăn, cần tiếp tục thực hiện quản lý chi thường xuyên tiết kiệm và hiệu quả hơn trong năm 2013.
Tri Nhân