Trái phiếu doanh nghiệp: Cần khung pháp lý chuẩn cho thị trường
Ảnh minh họa |
Vai trò quan trọng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Tại tọa đàm "Phát triển bền vững thị trường trái phiếu doanh nghiệp" tổ chức ngày 19/4, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính - Tiền tệ quốc gia cho biết, trái phiếu là kênh huy động vốn trung và dài hạn rất quan trọng.
Hàng năm, hệ thống ngân hàng đưa ra nền kinh tế 1,4-1,5 triệu tỉ đồng, 45% trong đó là vốn trung dài hạn. Như vậy, nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế rất lớn. Ước tính giai 2022-2025, nền kinh tế cần 3,15 triệu tỉ đồng/năm để đầu tư toàn xã hội. Trong khi vốn nhà nước chỉ chiếm 25-26%, còn lại phải huy động nguồn lực bên ngoài, nó cho thấy vai trò quan trọng của thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng.
Trái phiếu doanh nghiệp sẽ góp phần phát triển lành mạnh, cân đối hơn hệ thống tài chính. Bởi, bản chất của hệ thống ngân hàng là huy động vốn gửi ngắn và trung hạn, cho vay cũng chủ yếu ngắn và trung hạn chứ không phải dài hạn. Khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển sẽ góp phần đa dạng hóa kênh đầu tư, đa dạng hóa sản phẩm tài chính.
Ngoài ra, đây còn là kênh huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân và doanh nghiệp hay tổ chức khác, hạn chế vàng hóa, đô la hóa, huy động vốn cả trong và ngoài nước từ nguồn đầu tư qua quỹ hay trực tiếp.
Tuy nhiên theo TS. Cấn Văn Lực, thị trường trái phiếu hiện nay vẫn còn rất non trẻ, mới chỉ hơn 10 năm và chỉ phát triển tương đối nhanh, mạnh trong khoảng 5 năm trở lại đây. Vốn huy động qua thị trường chứng khoán gồm cả cổ phiếu và trái phiếu tương đương hơn 26% tổng lượng vốn cung ứng ra nền kinh tế; trong đó, trái phiếu doanh nghiệp chiếm khoảng 22,7% còn nguồn vốn huy động qua phát hành cổ phiếu chỉ chiếm 3,5%.
Cần lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Bên cạnh nhìn nhận vai trò của thị trường trái phiếu, các chuyên gia đều cho rằng việc sửa đổi Nghị định 53/2020/NĐ-CP của Chính phủ về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế là rất cần thiết để làm lành mạnh hoá thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Bởi vì, hiện đang có những lỗ hổng cần thời gian nhận diện và khắc phục triệt để và chỉ khi bắt đúng "bệnh" thì từ đó có kiến nghị cơ quan nhà nước xử lý để giúp cho thị trường phát triển lành mạnh hơn.
Đề cập đến một trong những giải pháp quan trọng nhất, TS. Cấn Văn Lực cho rằng cần phải khuyến khích hình thành các hãng xếp hạng tín nhiệm. Ví dụ như ở Singapore, Hàn Quốc… thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển khá tốt nhưng họ không bắt buộc 100% mà khuyến khích xếp hạng tín nhiệm trước khi phát hành. Nhưng ở Việt Nam, nên khuyến khích hay bắt buộc?.
Theo ông Lực, thời gian đầu là bắt buộc và khi thị trường phát triển tốt lên thì giãn dần ra. Như ở Singapore, khi doanh nghiệp có xếp hạng tín nhiệm và phát hành trái phiếu sẽ được hỗ trợ gấp đôi chi phí so với doanh nghiệp không có xếp hạng tín nhiệm.
Liên quan đến thị trường thứ cấp, sau khi phát hành, việc theo dõi, giám sát việc sử dụng tiền phát hành ra như thế nào? Ở khía cạnh này, hiện có rất nhiều ý kiến khác nhau.
“Ủy ban Chứng khoán Nhà nước không thể làm được việc giám sát, kiểm soát dòng vốn sau phát hành. Vì vậy, chủ yếu dựa vào cam kết của doanh nghiệp ở bản cáo bạch, trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp. Sau đó, nhà đầu tư thông qua các quỹ đầu tư để mua trái phiếu doanh nghiệp thì các quỹ này sẽ có trách nhiệm theo dõi, chứ không thể bắt buộc theo dõi, sử dụng vốn phát hành ra như thế nào. Đây cũng là bài toán cần cân nhắc”, ông Lực nói.
Ngoài ra, tiêu chí, tiêu chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng cần nâng lên. Đặc biệt, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, sớm có phương án cuối cùng. Tuy nhiên, trong lần sửa đổi này, các bên đang tiến hành tham vấn nhằm mục tiêu kiến tạo thị trường mà vẫn kiểm soát được rủi ro.
Bên cạnh đó, cần tăng chất lượng nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân. Vì hiện nay, giáo dục tài chính còn bỏ ngỏ. Theo các chuyên gia, để cho thị trường chứng khoán phát triển, cần chuyên nghiệp - minh bạch và trên nền tảng thị trường, thay vì biện pháp hành chính quá nhiều.
TS. Lê Đạt Chí (Đaị học Kinh tế TP.HCM) cho rằng quy định tại Nghị định 153 hiện nay là chưa đủ, chưa đặt nặng vai trò trách nhiệm, chuẩn mực, đạo đức trong hành nghề đánh giá tín nhiệm. Do đó, cần phải có Luật để nhà đầu tư có thể khiếu nại, khởi kiện đơn vị xếp hạng tín nhiệm trong trường hợp họ làm không đúng chuẩn mực. Theo ông, muốn phát triển thị trường nợ thì phải nâng lên thành Luật.
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh nhấn mạnh, việc quan trọng nhất là phải hoàn chỉnh các thể chế, chính sách, nhất là Nghị định 153 sửa đổi, quy định điều kiện được phát hành trái phiếu, do ở ta hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, cần phải quy định vốn vay/vốn chủ sở hữu, cân đối giữa vốn vay ngân hàng và vốn chủ sở hữu ở mức hợp lý.
Cần quy định các doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải xếp hạng tín nhiệm trong khoảng thời gian ngắn, đi cùng với các chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm.
“Cần phải chú trọng phát triển thị trường chứng khoán chưa chính thức (OTC), quy định điều kiện bán chứng khoán lần đầu và quy định về mua đi bán lại của các doanh nghiệp niêm yết. Đây là những điều rất quan trọng nhằm tạo ra dòng chảy vốn tốt hơn. Chính việc mua đi bán lại sẽ tạo thuận lợi cho các thành phần tham gia cũng như cơ quan giám sát vào cuộc”, ông Thịnh khuyến nghị.
10 giải pháp chính được các chuyên gia kiến nghị thực thi Thứ nhất, cần xử lý rốt ráo những vụ việc xảy ra trong thời gian qua nhằm tạo niềm tin cho thị trường, cho trái chủ và những người có liên quan. Thứ hai, cần củng cố hành lang pháp lý chặt chẽ hơn. Thứ ba, cần nâng cao chất lượng nhà đầu tư. Thứ tư, tăng cường quản lý thị trường thứ cấp. Thứ năm, tăng cường giám sát của cơ quan chức năng. Thứ sáu, quy định rõ tỉ lệ vốn vay trên vốn sở hữu. Thứ bảy, phát triển thị trường dịch vụ đánh giá tín nhiệm giúp trái chủ đánh giá được rủi ro khi quyết định đầu tư (hiện Việt Nam chỉ có 2 doanh nghiệp trong lĩnh vực này là quá ít so với nhu cầu thị trường). Thứ tám, quy định chặt chẽ hơn về thị trường OTC. Thứ chín, tăng cường hậu kiểm việc sử dụng nguồn vốn bảo đảm đúng mục đích. Cuối cùng, cần sự quyết tâm vào cuộc của tất cả các đơn vị, cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp. |