Trần lãi suất vay: 7 lý do cần loại trừ
Khoản 1, Điều 476 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Dự thảo BLDS sửa đổi tại Khoản 3, Điều 491 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác”.
Việc có cần trần lãi suất cho vay trong hoạt động NH hay không và thời điểm nào cần được thực hiện theo quy định của Luật NHNN và Luật Các TCTD |
Với quy định trên, có thể có cách hiểu là trần lãi suất vay tại BLDS cũng được áp dụng đối với hoạt động cho vay của các TCTD. Điều đó gây khó khăn và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các TCTD, theo đó hàng loạt hợp đồng cho vay của các TCTD có thể bị vô hiệu do vượt trần lãi suất vay theo quy định của BLDS. Việc áp dụng trần lãi suất tại BLDS đối với hoạt động kinh doanh của các TCTD là hoàn toàn không cần thiết và không hợp lý, với các lý do và thực tế như sau.
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 2 và 3, Điều 91 Luật Các TCTD: “TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động NH của TCTD theo quy định của pháp luật”; và “Trong trường hợp hoạt động NH có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD”. Hay theo quy định tại Điều 12, Luật NHNN: “NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”; và “Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các TCTD với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác”.
Theo tinh thần của các quy định tại Luật NHNN và Luật Các TCTD nêu trên, có thể hiểu rằng lãi suất trong hoạt động NH trong điều kiện bình thường sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất. Chỉ trong điều kiện thị trường tiền tệ, hoạt động NH có diễn biến bất thường, NHNN mới quy định cơ chế xác định lãi suất trong quan hệ giữa TCTD và khách hàng. Cơ chế xác định lãi suất này có thể bao gồm trần lãi suất cho vay trong quan hệ cấp tín dụng của TCTD với khách hàng.
Như vậy, nếu trần lãi suất vay tại BLDS điều chỉnh đối với cả hoạt động NH thì luôn luôn có một mức lãi suất trần khống chế với hoạt động kinh doanh của các TCTD. Điều này đi trái với chủ trương tự do hóa lãi suất của Đảng và Nhà nước ta trong nhiều năm qua và trái với quy định nêu trên của Luật NHNN, Luật Các TCTD.
Thứ hai, NHNN với chức năng là cơ quan quản lý đối với các TCTD, thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ có thể điều chỉnh mức lãi suất kinh doanh của các TCTD. Lãi suất của các TCTD phụ thuộc vào mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt chính sách tiền tệ của NHNN, có những thời điểm lãi suất của các TCTD được nâng lên rất cao để góp phần chống lạm phát. Nói cách khác, lãi suất trong hoạt động NH được điều chỉnh bởi các công cụ chính sách tiền tệ, có một cơ quan chuyên ngành là NHNN quản lý theo các quy định của luật chuyên ngành là Luật NHNN và Luật Các TCTD.
Thứ ba, với tư cách là trung gian tài chính nhận tiền gửi từ công chúng và sử dụng tiền gửi này để cấp tín dụng, mức lãi suất cho vay của các TCTD được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn, chi phí cho vay, thời hạn vay, uy tín của khách hàng, mức độ rủi ro của từng khoản vay… Do đó, thực tiễn cho thấy TCTD thường xác định mức lãi suất cho vay khác nhau đối với từng loại khách hàng và từng loại khoản vay khác nhau. Việc áp cùng một mức trần lãi suất cho vay là hoàn toàn không hợp lý.
Đối với một số hình thức cho vay trong hoạt động NH như cho vay tiêu dùng (tín dụng tiêu dùng), cho vay của các tổ chức tài chính vi mô, với đặc điểm quy mô khoản vay nhỏ hoặc khách hàng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nên chi phí tính trên từng khoản vay rất lớn. Mặt khác, các khoản vay này thường không có tài sản bảo đảm, nên khả năng xảy ra rủi ro không thu hồi được vốn cao. Để bù đắp rủi ro và chi phí, mức lãi suất đối với các khoản vay này thường cao hơn khá nhiều so với các khoản cho vay thông thường của NHTM. Do đó, quy định mức lãi suất trần vay như tại dự thảo BLDS là không phù hợp đối với các hoạt động này; có thể dẫn đến các hoạt động cho vay tiêu dùng, cho vay của các tổ chức tài chính vi mô không phát triển được, từ đó làm cho “tín dụng đen” ngày càng phát triển.
Thứ tư, lãi suất kinh doanh của các TCTD chịu sự tác động của hoạt động cạnh tranh trên thị trường tín dụng NH và sự cạnh tranh này đủ lớn để không có TCTD nào tự ấn định mức lãi suất cho vay quá cao so với mặt bằng chung lãi suất NH. Do vậy, việc khống chế mức trần lãi suất cho vay đối với hoạt động NH trong điều kiện bình thường là không cần thiết.
Thứ năm, việc áp dụng trần lãi suất vay tại BLDS với hoạt động NH có thể hiểu là một sự can thiệp lãi suất trong hoạt động kinh doanh NH bằng biện pháp hành chính. Sự can thiệp hành chính này trái với những nguyên tắc thị trường và không phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế của Việt Nam về cải cách hệ thống NH khi gia nhập WTO. Đây có thể là một bất lợi để các nước khác viện cớ áp đặt các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hoặc ảnh hưởng đến việc các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường.
Thứ sáu, lãi suất cho vay trong hoạt động của các TCTD là giá dịch vụ NH. Theo quy định của Luật Giá, giá của dịch vụ NH không thuộc nhóm dịch vụ phải áp trần. Do đó, dự thảo BLDS quy định trần lãi suất cho vay đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ NH là không thống nhất và phù hợp với quy định tại Luật Giá.
Thứ bảy, theo kinh nghiệm quốc tế như ở Mỹ, việc quy định trần lãi suất cho vay đối với hoạt động kinh doanh NH nhằm mục đích chống cho vay nặng lãi, bảo vệ người tiêu dùng (bên đi vay) không phát huy hiệu quả. Quy định trần lãi suất cho vay dẫn đến việc các tổ chức cho vay nâng mức lãi suất cao hơn đối với những khoản vay vốn có rủi ro thấp đang thực hiện lãi suất thấp để bù đắp chi phí đối với những khoản vay có rủi ro cao nhưng không thể đặt mức lãi suất cao vượt mức lãi suất trần. Điều này dẫn đến không phân loại được rủi ro, đánh đồng các mức lãi suất giữa các khoản vay và làm chi phí vay trung bình cao hơn.
Mặt khác, dưới tác động của trần lãi suất cho vay, các tổ chức cho vay dần rút khỏi thị trường, không cho vay đối với các rủi ro cao do lãi suất không đủ bù đắp chi phí, rủi ro, làm cho nhu cầu vay vốn của bên đi vay không được đáp ứng. Như vậy, việc áp trần lãi suất cho vay trong hoạt động kinh doanh NH với mục đích chống cho vay nặng lãi, bảo vệ bên đi vay không đạt được mục đích mà ngược lại còn cản trở người có nhu cầu vay vốn tiếp cận vốn vay.
Tuy nhiên, dù trần lãi suất vay tại BLDS được quy định theo hướng nào, thì cũng cần thể hiện rõ là không áp dụng trần lãi suất vay tại BLDS đối với hoạt động NH. Việc có cần trần lãi suất cho vay trong hoạt động NH hay không và thời điểm nào cần được thực hiện theo quy định của Luật NHNN và Luật Các TCTD.