Vẫn lúng túng về quy định lãi suất
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý |
Về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự (các điều 5, 6 và 14), nhiều ý kiến tán thành việc cần có quy định về bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền để thể chế hóa Hiến pháp về việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Một số ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về áp dụng tập quán, lẽ công bằng, tương tự pháp luật, vì cho rằng quy định như vậy không phù hợp với quy định của Hiến pháp là Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nhiều ý kiến đề nghị quy định cụ thể khái niệm tập quán, tương tự pháp luật, án lệ, lẽ công bằng và cơ chế áp dụng để bảo đảm tính khả thi.
Một trong những vấn đề quan trọng của dự thảo hiện còn có ý kiến khác nhau là việc sửa đổi Phần thứ hai của Bộ luật từ Tài sản và quyền sở hữu thành Quyền sở hữu và các vật quyền khác.
Theo bố cục của Bộ luật Dân sự hiện hành, nội dung của Phần thứ hai với tên gọi Tài sản và quyền sở hữu thể hiện các nội dung cốt lõi của tài sản và quyền sở hữu, cụ thể là: các loại tài sản, nội dung của quyền sở hữu, các hình thức sở hữu, xác lập và chấm dứt quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu và những quy định khác liên quan đến quyền sở hữu.
Còn nếu sửa đổi tên gọi Phần thứ hai của Bộ luật Dân sự là Quyền sở hữu và vật quyền khác, nội dung của phần này ngoài việc bố cục lại để làm rõ khái niệm vật quyền, việc xác lập, chấm dứt, bảo vệ vật quyền, còn có điểm mới được bổ sung là Chương XIV về Các vật quyền khác, bao gồm địa dịch, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý cho biết, “vật quyền” được xác định là nhóm quyền về tài sản mà chủ thể vật quyền (có thể là chủ sở hữu hoặc người không phải là chủ sở hữu) có đầy đủ quyền chi phối trực tiếp đối với vật mà không cần thông qua hành vi của người khác. Trong nhóm này quyền sở hữu của chủ sở hữu là quyền chi phối trực tiếp, mạnh mẽ và toàn diện nhất. Bên cạnh đó, khái niệm vật quyền thường để phân biệt với các quyền tài sản thuộc nhóm “trái quyền”, trong đó, chủ thể trái quyền có quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
Như vậy, nếu dự thảo Bộ luật Dân sự xây dựng chế định vật quyền thì nhóm quyền này phải được đặt trong mối quan hệ với chế định trái quyền chứ không phải nghĩa vụ và hợp đồng như dự thảo. Đồng thời, việc sửa đổi một số quy định liên quan đến vật quyền trong Bộ luật Dân sự hiện hành chưa thật sự thuyết phục bởi một số vật quyền mới được bổ sung như quyền hưởng dụng, quyền bề mặt còn nhiều ý kiến khác nhau cần được cân nhắc kỹ lưỡng.
Ủy ban Pháp luật đề nghị không nên sử dụng các khái niệm mới khi chủ thuyết, nội dung chưa rõ ràng và về bố cục chưa bảo đảm tính logic; đồng thời, cũng không nên sử dụng các thuật ngữ hoàn toàn mới nếu nội hàm quy định không có sự thay đổi cơ bản.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp, ông Nguyễn Văn Hiện cũng không đồng tình với hai khái niệm này vì trong luật không định nghĩa vật là gì mà chỉ có định nghĩa về tài sản, vật quyền khác với quyền tài sản như thế nào. “Nói mỗi người đều có vật quyền và trái quyền có hay hơn quyền tài sản và nghĩa vụ với tài sản hay không?”, ông Hiện đặt dấu hỏi.
Liên quan đến quy định lãi suất trong hợp đồng vay tài sản (Điều 475 dự thảo mới, Điều 483 dự thảo trình Quốc hội), Điều 483 dự thảo Bộ luật Dân sự trình Quốc hội quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”.
Nhiều ý kiến đề nghị làm rõ cơ sở của việc nâng mức lãi suất lên 200% lãi suất cơ bản (quy định hiện hành là 150%) và đề nghị không nên sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu, vì đây là công cụ điều hành chính sách tiền tệ; đồng thời đề nghị nên nghiên cứu sử dụng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất trái phiếu Chính phủ hoặc lãi suất của một hoặc một số ngân hàng thương mại lớn để tham chiếu...
Theo ông Phan Trung Lý, nếu cho rằng không nên sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu trong quan hệ dân sự vì đây là công cụ điều hành chính sách tiền tệ thì lãi suất tái cấp vốn cũng có chức năng tương tự như vậy (Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam); hơn nữa lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất cho vay tiêu dùng của một hay một số ngân hàng thương mại có tỉ trọng tín dụng lớn, hay lãi suất trái phiếu Chính phủ... cũng là những mức lãi suất không phổ biến và không dễ tiếp cận với phần lớn người dân như lãi suất cơ bản.
Bên cạnh đó cũng có ý kiến đề nghị nên quy định một mức lãi suất cố định trong Bộ luật Dân sự, tuy phương án này thuận lợi cho việc áp dụng nhưng lại không bảo đảm tính linh hoạt khi điều kiện kinh tế - xã hội có biến động.
Do còn nhiều ý kiến khác nhau, tại phiên họp này, Ủy ban Pháp luật trình hai phương án. Theo đó, Phương án 1: quy định mức lãi suất cố định ngay trong Bộ luật Dân sự; tuy nhiên, nếu theo phương án này thì cần giao một cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh mức lãi suất này, theo đó nên quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất này theo đề nghị của Chính phủ để bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với thực tiễn. Phương án 2: giữ như quy định của dự thảo trình Quốc hội. Ủy ban Pháp luật tán thành với phương án 1.
Đại diện cơ quan soạn thảo, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho rằng, đây là vấn đề khó. Nếu như phương án 1 đề nghị ở đây là có một lãi suất cố định cũng giống như nhiều nước là có lãi suất cơ bản, tuy nhiên nền kinh tế của họ phải ổn định như Đức 40 năm qua, lãi suất này không thay đổi. Tuy nhiên ở chúng ta muốn ổn định nhưng không ổn định thì phải điều chỉnh. “Tôi cho rằng phương án Ủy ban Pháp luật đưa ra quy định cố định trong Bộ luật Dân sự sau đó giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh nếu có những biến động lớn ở từng thời kỳ là hợp lý.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu năm 2010 cho biết, Chính phủ trình Quốc hội Dự án Luật NHNN sửa đổi và Luật các TCTD sửa đổi cũng gặp trắc trở khi quy định về lãi suất. Trong thời kỳ đó có tác động khủng hoảng bên ngoài và diễn biến thị trường trong nước, cuối cùng NHNN và cơ quan thẩm tra có cụ thể hóa thêm tại Điều 12 quy định rất chặt chẽ là khi thị trường biến động thì NHNN sẽ can thiệp lãi suất hay nói cách khác quy định lãi suất giữa NHNN với các TCTD và giữa các TCTD với người vay.
Phương án mới là sẽ quy định lãi suất cố định trong Bộ luật Dân sự nhưng phương pháp tính thì không đưa ra, thế nào là không vượt 20% hay nội hàm về bản chất kinh tế của nó cũng không có... Nếu đưa ra không có cơ sở thì xã hội khó chấp nhận. Quy định lãi suất phải dựa vào kiểm soát lạm phát. Nếu lạm phát chỉ 1-2% giờ đưa lên 20% thế này thì quy định như vậy là khó giải thích được.
“Nếu đưa ra phương án mới này thì phải có phương pháp tính, phương pháp này phải có nội hàm kinh tế để tính được nó để xã hội chấp nhận chứ nếu không sẽ bị quy là tự áp đặt, như vậy là không nên”, ông Giàu nói.