Vị riêng của ký ức
Thảnh thơi tàu, xe ngày tết | |
Sôi động chợ Tết |
Tết cũ ở Hà Nội còn có mùi vị nơi tôi sinh ra, rất gần Hồ Gươm và ga Hàng Cỏ và tôi chỉ thích tết cũ. Tết cũ là thước phim đen trắng quay thật chậm như khi tôi đi xem phim ở bãi chiếu bóng làng quê thời sơ tán ở vùng Cát Quế, gần chùa Thầy.
Ngày ấy tết chỉ mong có đủ nước sạch để ăn, khi phải xếp hàng dài từ máy nước đến tận gốc cây sấu già quãng dăm mét để đến lượt gánh hai thùng nước. Sân nhà phải có đầy phuy chứa 200 lít mới gọi là đỡ lo, nhà tôi chỉ có 3 người, bố mẹ và tôi sẽ dùng thật tiết kiệm qua ngày mùng 1.
Đêm giao thừa tôi không phải chờ xếp hàng gánh nước, mà được mặc áo mới đi Bờ Hồ với bạn láng giềng học từ thuở lớp 1. Rồi đi chơi tết, mẹ cho một hào mua kem, chơi phố đến lúc chạm giao thừa thì về. Về đến ngõ thấy bố vẫn đi gánh nước, lúc đó máy nước công cộng vắng tanh. Không có xô thùng, xếp hàng, chỉ có mình bố tôi gánh nước khuya cho con gái đi chơi. Cả năm sống bằng tem phiếu, có 4 mét vải mẹ cũng dành hết cho con may hai bộ quần áo mới đi học. Chiếc áo phin hoa, chiếc áo bông ngày tết tôi giữ bao nhiêu năm như giữ gìn quá khứ, rồi cuối cùng Hà Nội thời chạy bom, đi sơ tán, cũng phải loại đi.
Nhà cửa những năm đó, đồ đạc không có gì nhiều. Rồi ra chợ ga Hàng Cỏ mua lá dong, lạt điều và mua miếng bóng bì thăn ở chợ ga, mua rượu Thanh mai với gói thuốc lá Điện Biên bao bạc. Tết cũ, mẹ dặn bà Bính ở làng Ước Lễ mang cho nửa cân giò để cúng tất niên và giao thừa. Bát canh bóng nấu với nước luộc gà thật trong có nấm hương cà rốt, su hào, thịt nạc thăn; bát có đủ 5 vị ngũ hành của đất trời, kim mộc thủy hỏa thổ.
Cỗ tết cũ, mâm cơm cúng tất niên có 4 bát , 6 đĩa được bày biện đẹp mắt. “Nhà mình ăn cỗ cả bằng mắt nữa” - mẹ tôi nói thế. 4 bát gồm măng khô nấu chân giò, khoai tây hầm cà ri cổ cánh gà, bát canh bóng ngũ vị, riêng bát miến nấu ngon không bày trên mâm. Mẹ nói, nếu cúng bát miến sẽ làm rối ruột ông bà, tổ tiên, không nên cúng bún và miến là vì thế. Bát bún hay miến chỉ để dưới bếp, khi ăn mới bưng lên. Còn đĩa nộm đu đủ xanh, đĩa xôi vò tơi từng hạt xôi thật vàng; một đĩa xào thịt bò cần tây tỏi tây, đĩa thịt quay áp chảo vàng ruộm, đĩa bánh chưng đã làm cho mâm cỗ dâng tổ tiên vừa có ý nghĩa để con cháu biết ơn, nhớ tới ông bà, vừa có ý nghĩa thưởng lãm vị ngon của ngày tết.
Ngày xưa, mẹ thường ngâm đỗ đãi vỏ, rồi tự gói bánh chưng. Khi nấu cỗ, mẹ cho con gái ngồi xem: “Xem mẹ làm đã, không cần phải mó tay vào”. Sau này có gia đình riêng tôi đã thuộc lòng các món nấu mẹ dạy qua những lần ngồi xem như thế, qua những cái tết thời thơ bé. Lúc đó, tôi mới hiểu ra cách dạy con của mẹ, chỉ ngồi xem mẹ làm, nhớ kỹ là được rồi. Đó cũng là cách mẹ dạy nữ công gia chánh, giữ nếp nhà của người Hà Nội xưa.
Tôi biết thêu thùa khâu vá, đan len, móc chỉ đều nhờ mẹ cả. Có cái tết mẹ vá áo, miếng vá chìm để diện tết, mà không ai nhìn thấy. Đó là năm vận hạn của gia đình tôi, mẹ tôi dùng tiền để chữa mắt, rồi cố chi tiêu tiết kiệm nhất để vẫn có cái tết đầy đủ cho con. Bố tôi đi làm ở nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, tết vẫn tranh thủ đi câu cá ở đầm Sét, hay vùng Đuôi Cá. Hồi đó đầm, ao, rất nhiều cá chép, cá rô. Khi bố tôi kéo vó được nhiều cá, mẹ tôi bảo chiều Ba mươi mang túi cá cho nhà thím Bắn ở cuối làng Vân Hồ, nhà đó đông con lại nghèo, thiếu bữa là cái chắc, rồi thêm cặp bánh chưng để thím thắp hương tất niên.
Mẹ dạy tôi biết chia bùi sẻ ngọt với người khác, vì nhà mình có khá giả hơn, đủ bữa hơn nhà người khác. Có lần mùng 1 tết, đúng bữa cơm ngày đầu năm mới, tự dưng có người xông nhà tôi - là một bà già nghèo khó, tên là Thưỡi. Người đàn bà cô độc trong dòng họ, đến chúc tết nhà tôi, bà mặc quần áo không được lành lặn. Bố tôi nói nhỏ với mẹ rồi mẹ mang chiếc áo bông còn mới của mình ra mừng tuổi bà. Mặc chiếc áo mới bà Thưỡi cười và thấy nước mắt rất đục của bà chảy ra, cả nhà mời bà ăn tết. Bố chúc rượu và bà Thưỡi nói ngắt quãng: “Lâu lắm mới có bữa ngon và được anh chị Ba cho hưởng không khí gia đình”. Khi bà về, mẹ lại tặng bà chiếc bánh chưng, khoanh chả quế. “Dù sao nhà mình cũng có của ăn hơn bà Thưỡi nghèo khổ, chỉ có một thân một mình. Bà nội con ngày xưa ở làng Vân Hồ còn gọi tất cả người cơ nhỡ vào nhà nuôi ba ngày Tết”. Bà thương người, để lại tấm lòng hào hiệp, khi mẹ về làm dâu mới hiểu và trọng cách cư xử của mẹ chồng mình.
Hà Nội xưa cũng làng quê ao chuôm ếch nhái kêu vang, như một làng quê Bắc bộ khác. Lời của mẹ cứ nhỏ từng hạt, thấm như mưa phùn.
Tết cũ có vị riêng biệt của ký ức. Câu chuyện cũ mà vẫn còn mới cho đến ngày hôm nay. Dù đời sống đầy đủ tiện nghi đến mấy thì đời sống của ngày xưa cơ khó vẫn còn đọng lại như một thứ tài sản để ta khăn gói cất giữ trong tâm tưởng, nó đẹp và trong sáng. Giá trị của vật chất là nhỏ nhưng mẹ đã dạy cho con bài học lớn là biết yêu thương kẻ khó hơn mình.
Tết là ngày sum vầy yêu thương chia sẻ, không gian sẽ ấm áp trong cả chuỗi thời gian cả năm nếu ta sống đẹp. Dư vị của một năm còn mãi ở bờ môi, không chỉ là món ngon, mà còn là câu chuyện nồng đượm tình nghĩa để lại trong khói của giao thừa và giá trị sống đẹp của người với người mãi còn ở lại.