Việt Nam - Hàn Quốc: Sẵn sàng cho mối quan hệ sâu sắc hơn
Ông Hong Sun |
Trong trao đổi giữa Chủ tịch Quốc hội hai nước mới đây, hai bên muốn nâng cấp quan hệ lên mức đối tác chiến lược toàn diện. Ông nhìn nhận về triển vọng này thế nào?
Nâng cấp hơn nữa mối quan hệ Hàn Quốc và Việt Nam là để hai nước cùng chung tay phát triển và hướng tới tương lai và sẽ giúp nâng cao hơn nữa hợp tác giữa hai nước. Ngày 22/12/2022 sẽ là tròn 30 năm 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao, nên đây sẽ là dấu mốc rất ý nghĩa nếu mối quan hệ được chính thức tuyên bố nâng cấp vào năm tới. Tôi cho rằng thậm chí nếu được thì không cần phải chờ đến sang năm mà ngay năm nay có thể chuẩn bị các nội dung và ký sớm, coi đây là món quà chúc mừng cho dấu mốc quan hệ ngoại giao 30 năm vào năm 2022.
Tuy nhiên, nếu chỉ tuyên bố nâng cấp mối quan hệ, nói rằng giờ đây 2 nước chúng ta là mối quan hệ gia đình thì “không ăn thua”, chưa có gì thay đổi nhiều. Điều cần thiết là phải có các cam kết, nội dung, chế độ cụ thể đi theo sự nâng cấp đó là gì. Theo tôi một trong những nội hàm là Chính phủ, các bộ, ngành của hai bên nên cùng nghiên cứu, xây dựng lộ trình, các nội dung để giúp mở rộng hơn nữa FTA mà hai bên đã có từ 2015. Ví dụ như phía Hàn Quốc cần mở, nhập khẩu thêm các sản phẩm nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Đây là những mặt hàng mà người dân Hàn Quốc luôn có nhu cầu lớn, nhưng kiểm soát của cơ quan quản lý Hàn Quốc hiện khá ngặt nghèo. Hay Việt Nam cũng có một số lĩnh vực nhạy cảm còn đóng cửa và sẽ mở rộng ra theo lộ trình FTA song phương, nhưng khi nâng cấp quan hệ lên như vậy thì chúng ta hoàn toàn có thể giảm bớt thời gian, rút ngắn lộ trình đó hơn nữa.
Cũng cần có chế độ visa dài hơn cho nhà đầu tư và cải thiện những vướng mắc về giấy phép, thủ tục cho người lao động sang làm việc giữa hai nước. Nối lại và tăng thời hạn miễn thị thực cho người Hàn Quốc đến Việt Nam du lịch lên 30 ngày…
Trong thương mại song phương, hiện có tình trạng thâm hụt lớn đang nghiêng về phía Việt Nam. Liệu có những cách nào để giảm bớt sự mất cân bằng này?
Sự mất cân đối giữa xuất siêu và nhập siêu giữa hai bên chủ yếu do vấn đề cơ cấu và nhìn ở góc độ như vậy thì việc nhập siêu của Việt Nam với Hàn Quốc còn là tích cực. Vì sao? Vì Hàn Quốc xuất khẩu sang các nguyên vật liệu, phụ kiện, linh kiện là chính để phục vụ cho các doanh nghiệp Hàn Quốc đang đầu tư sản xuất ở Việt Nam, sau đó xuất khẩu sản phẩm ra thế giới; chứ không phải xuất khẩu nhiều sang Việt Nam các sản phẩm tiêu dùng. Một dẫn chứng khác cho thấy điều này là hiện kim ngạch thương mại giữa hai nước mỗi năm chỉ khoảng 70 tỷ USD nhưng chỉ riêng Samsung ở đây đã xuất khẩu đi khoảng 75 tỷ USD mỗi năm, chưa kể các doanh nghiệp Hàn Quốc khác tại Việt Nam cũng xuất khẩu hàng chục tỷ USD nữa.
Mục tiêu của hai nước là kim ngạch thương mại đạt 100 tỷ USD vào năm 2020, nhưng do đại dịch Covid xuất hiện nên không thực hiện được. Nên tôi cho rằng sự hợp tác giữa hai bên là phải làm sao trong thời gian sớm nhất đạt được mục tiêu đó.
Tuy nhiên, tôi cũng đồng ý là có cải thiện quan hệ thương mại song phương hơn nữa bằng cách làm sao để Hàn Quốc nhập khẩu nhiều sản phẩm từ Việt Nam hơn. Trong đó chúng tôi mong muốn Chính phủ Hàn Quốc sẽ cởi mở hơn để các sản phẩm nông sản của Việt Nam được nhập vào Hàn Quốc nhiều hơn.
Theo ông, thách thức lớn nhất với các nhà đầu tư Hàn Quốc trong triển khai các dự án đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam lúc này là gì?
Có lẽ là vấn đề đi lại. Vì chống dịch Covid-19 nên từ cuối tháng 4 đến nay rất hiếm có trường hợp nhà đầu tư, chuyên gia, lao động nước ngoài được vào Việt Nam làm việc. Chúng tôi rất hy vọng Chính phủ đưa ra nhiều phương thức để vừa bảo vệ an toàn, song song với đó thì vẫn phải nên tiếp tục mở cửa cho người nước ngoài đã tiêm phòng được vào Việt Nam trên cơ sở kiểm tra, xét nghiệm chặt chẽ. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, họ vừa kiểm soát chặt chẽ các vấn đề sức khỏe, nhưng đồng thời cũng đang mở cửa, vì nếu không sẽ “chậm chân” trong thu hút đầu tư cũng như khiến tất cả các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp liên quan đến du lịch sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng suy giảm nặng nề hơn nữa.
Trong bối cảnh cả hai nước vẫn kiểm soát dịch tương đối tốt, nếu chúng ta tạo được ra bong bóng du lịch (travel bubble) thì công dân hai nước sẽ yên tâm được đi du lịch và làm việc giữa hai bên. Năm 2019, có tới 4,3 triệu người Hàn Quốc đã đến Việt Nam, trong khi năm 2020 tụt xuống chỉ có hơn chục nghìn người sang Việt Nam theo dạng nhập cảnh đặc biệt. Người dân Hàn Quốc đang rất “bức bách” muốn đi du lịch nước ngoài và nếu sớm có một thỏa thuận giữa hai bên như vậy thì họ sẽ thấy đi ra nước ngoài hiện nay chỉ có đến Việt Nam là được đi lại thoải mái nên họ sẽ chọn Việt Nam để đi, lượng người Hàn Quốc đến đây sẽ tăng rất cao, nhờ đó nhiều điểm du lịch quan trọng của Việt Nam sẽ hồi phục mạnh trở lại.
Trong trường hợp vẫn lo ngại và không muốn mở hoàn toàn ngay thì hai bên có thể thống nhất với nhau về lượng khách có thể chấp nhận ở một mức độ nhất định. Tạm thời sẽ chỉ mở cửa thử theo phương thức như vậy giữa 2 nước Hàn Quốc và Việt Nam, sau đó trên cơ sở hiệu quả (cả lợi ích kinh tế và kiểm soát dịch bệnh) và kinh nghiệm mang lại, Việt Nam có thể tiếp tục mở với các nước khác. Những người muốn đi lại như vậy thì đều 100% đã được tiêm vắc xin đủ 2 mũi vắc xin đã được WHO công nhận. Theo phương thức như thế thì khi sang đất nước của nhau công dân sẽ được miễn cách ly, nhưng vẫn phải kiểm tra, xét nghiệm PCR và theo dõi chặt chẽ. Tôi cho rằng, khi hai nước đang chuẩn bị nâng cấp mối quan hệ thì cũng nên trao đổi sớm về việc thiết lập “bong bóng du lịch” giữa 2 bên để thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch.
Xin cảm ơn ông!