Vốn NH thúc đẩy hạ tầng giao thông
Vốn ngân hàng nâng đỡ miền Tây | |
Vốn ngân hàng góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế Hòa Bình | |
Vốn ngân hàng vực dậy nhiều doanh nghiệp |
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông phát triển mạnh trong giai đoạn vừa qua cho thấy sự nỗ lực cố gắng của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) cùng với các bộ ngành liên quan và địa phương. Đặc biệt nhờ có sự vào cuộc của các NHTM dưới sự chỉ đạo của NHNN, vốn đã được cấp kịp thời cho công tác xây dựng hạ tầng.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng nhận định tại “Hội nghị đánh giá công tác đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp đồng BOT và BT giai đoạn 2011–2015 do Bộ GTVT quản lý”. “Rõ ràng nếu NH không quyết liệt hỗ trợ vốn cho các NĐT thì chúng ta không thể có nhiều công trình thông qua BOT như thời gian qua”, ông nhấn mạnh.
Ngân hàng tích cực vào cuộc
Thay mặt Bộ GTVT, Thứ trưởng Nguyễn Nhật cho biết, từ khi triển khai kế hoạch 5 năm 2011-2015, ngành giao thông vận tải đã đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn. Sự xuống cấp, quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đã trở thành điểm nghẽn cản trở phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư là yếu tố rất quan trọng để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông lại thiếu trầm trọng.
Theo tính toán của Bộ GTVT, riêng giai đoạn 2011 - 2015, nhu cầu nguồn vốn cần khoảng 484.000 tỷ đồng, trong khi đó nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ và vốn vay ưu đãi (ODA) chỉ cân đối được 181.000 tỷ đồng, đáp ứng khoảng 37% nhu cầu. Việc sử dụng ODA cũng ngày càng hạn chế khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình. Do vậy, việc huy động các nguồn lực ngoài ngân sách để phát triển hạ tầng giao thông là hướng đi tất yếu để hiện thực hóa các mục tiêu nêu trên.
Ảnh minh họa |
Trong bối cảnh đó, Bộ GTVT đã đẩy mạnh hình thức xã hội hoá đầu tư, thu hút vốn đầu tư tư nhân. Kết quả đã huy động được 186.660 tỷ đồng để đầu tư 62 dự án theo hình thức hợp đồng BOT và BT, chiếm 42% trong tổng nguồn vốn đầu tư hạ tầng giai đoạn 2011-2015. Tính đến nay, nguồn vốn giải ngân là 121.833 tỷ đồng, đạt 65,3% tổng nguồn vốn đã huy động được.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đánh giá, 5 năm qua thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ đã tập trung nguồn lực để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Cùng với vốn ngân sách, vốn ODA, các nguồn lực xã hội cho đầu tư hạ tầng giao thông đã đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Qua quá trình thực hiện, vốn của NĐT cùng với sự tham gia của các TCTD đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về hình thức đầu tư, góp phần cải thiện nhanh chóng hệ thống hạ tầng của Việt Nam. Hạ tầng cùng với thể chế, nguồn nhân lực đã tạo ra môi trường đầu tư và xây dựng hệ thống hậu cần dịch vụ hết sức quan trọng để phát triển kinh tế, hội nhập với khu vực và thế giới.
Hoàn thiện cơ chế để giảm rủi ro
Tuy nhiên, trong bối cảnh cơ chế chính sách đối với hoạt động của dự án BOT, BT còn chưa hoàn thiện, thì bên cho vay là NH cũng đối mặt không ít rủi ro.
Ông Lê Ngọc Lâm, Phó tổng giám đốc NHTMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) đã nêu lên một số vấn đề băn khoăn từ phía NH. Ông cho biết, BIDV là một trong những NH tham gia tích cực nhất vào các chương trình đầu tư hạ tầng giai đoạn vừa qua. Đến nay NH đã cho vay khoảng 46 dự án BOT và BT với tổng số tiền cam kết cho vay khoảng 47.000 tỷ đồng.
Qua triển khai cho vay NH gặp phải một số khó khăn vướng mắc liên quan. Theo đó, hiện nay các dự án BOT, BT thường có thời gian hoàn vốn tương đối dài, thường mỗi dự án luôn lên tới trên 20 năm, vì vậy NH rất đắn đo khi tính toán để tài trợ vay vốn.
Đặc biệt trong bối cảnh NHNN chỉ đạo giảm dần nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Chưa kể một số dự án khi triển khai xong thì giá trị đầu tư thấp hơn tổng mức đầu tư dự kiến ban đầu, sau đó lại bổ sung dự án thành phần vào để đảm bảo giữ nguyên thời gian thu hồi vốn. Việc này cũng ảnh hưởng tới thời gian cho vay của NH.
Vướng mắc khác là công tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án làm phát sinh chi phí so với ban đầu, gây ra rủi ro với NĐT vì làm kéo dài thời gian triển khai dự án và làm giảm thời gian thu phí. Ông Lâm cũng lưu ý, Nhà nước cũng cần làm tốt quy hoạch chung để bảo vệ quyền lợi NĐT.
Từ các khó khăn đó, đại diện của BIDV kiến nghị, khi tính toán mỗi dự án, các phương án thu hồi vốn đặt ra cần phù hợp điều kiện kinh tế đặc thù của Việt Nam. Chẳng hạn thời gian thu hồi vốn co ngắn lại còn khoảng 15 năm, sẽ hấp dẫn NĐT và NH hơn khi cho vay.
Kiến nghị khác là trong các dự án khi phê duyệt thẩm định đã có lộ trình tăng phí và NH khi tính toán cũng theo lộ trình đó. Vì vậy nếu lộ trình tăng phí không đảm bảo cũng ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của chủ đầu tư, đặc biệt trong giai đoạn đầu của dự án khi mức lãi phải trả tương đối lớn. Vì vậy kiến nghị Nhà nước ổn định chính sách, nếu thay đổi quá nhanh và thường xuyên sẽ ảnh hưởng thời gian và khả năng trả nợ của NĐT. Điều này cũng gây rủi ro cho NH.
Với chi phí giải phóng mặt bằng, thời gian tới nên sử dụng vốn ngân sách và nguồn vốn khác, NĐT chỉ làm khi có mặt bằng sạch. Như vậy sẽ thuận tiện cho NĐT, không làm kéo dài thời gian thực hiện dự án, hạn chế rủi ro về thời gian đầu tư và giảm rủi ro cho cả NH.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng nhận định, hiện nay chúng ta chưa sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho hạ tầng giao thông, như sử dụng cơ chế vốn hỗn hợp. Theo đó đầu tư cho BOT hiện nay chủ yếu là NĐT và NH tham gia còn nhà nước chưa thể vào cuộc.
Theo ông Dũng, trước đây có một số dự án nhà nước cùng làm như tuyến đường Nội Bài - Vĩnh Yên trong giai đoạn 2011-2012, Nhà nước đã bỏ tiền giải phóng mặt bằng, giúp DN giảm vốn vay NH, giảm thời gian thu phí, hạn chế rủi ro cho các TCTD. Nhưng hiện nay chúng ta chưa có cơ chế để nhà nước cùng phối hợp như vậy. “Thay vì đầu tư toàn bộ một con đường, nếu nhà nước chia ra để hỗ trợ cho mỗi dự án thì NĐT vào sẽ an toàn hơn”, ông Dũng cho biết.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng đề nghị hệ thống NH tiếp tục ủng hộ, tham gia tích cực hơn nữa vào các dự án BOT thời gian tới. Về phía Bộ GTVT, thời gian tới Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để huy động thêm các nguồn lực tham gia như tiếp cận thị trường vốn tín dụng nước ngoài.
Tuy nhiên trước mắt vốn NH vẫn sẽ là nguồn lực quan trọng. Vì vậy Bộ sẽ nghiên cứu trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách tín dụng phục vụ đầu tư hạ tầng. Nghiên cứu ban hành một số cơ chế hỗ trợ nguồn vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông thông qua các chính sách tiền tệ như tái cấp vốn, giảm dự trữ bắt buộc, các công cụ thị trường mở để tạo nguồn vốn cho các TCTD…