Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
Phải biết “đứng trên vai người khổng lồ”
Tại nhiều cuộc họp, hội nghị và sự kiện gần đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhiều lần nhấn mạnh: Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô (KTVM), bảo đảm các cân đối lớn, không để đứt gãy các chuỗi cung ứng… là yêu cầu đặt ra với Việt Nam và có ý nghĩa hết sức quan trọng để bảo đảm nền kinh tế không bị phụ thuộc, chi phối lớn bởi bên ngoài.
Văn kiện Đại hội XIII cũng xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với mở cửa và hội nhập quốc tế. Theo đó, một nền kinh tế có nội lực mạnh sẽ thúc đẩy nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, trong khi hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả sẽ tạo tiền đề để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thực tế tư duy “đi tắt, đón đầu” và những lợi ích của CMCN 4.0 nếu được tận dụng tốt cũng chính là một trong những cách thức giúp chúng ta có được độc lập, tự chủ nhờ hội nhập. Mặt khác, điều này giúp Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển trong bối cảnh mới.
Tận dụng tốt những lợi ích của CMCN 4.0 cũng là cách giúp chúng ta có được độc lập, tự chủ nhờ hội nhập |
Theo TS. Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, cần hiểu việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ hiện nay khác với khái niệm của những năm 90 thập kỷ trước khi chúng ta vừa xây dựng cương lĩnh công nghiệp hóa đất nước. “Việt Nam không phải là cái gì cũng có nguồn lực, không phải việc gì cũng làm được. Muốn cao phải biết đứng trên vai người khổng lồ. Các nước phương Tây có 300 năm công nghiệp hóa và chúng ta cần tận dụng lợi thế này. Như vậy, kinh tế độc lập, tự chủ không phải là tự làm hết mà là tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và phải đi từ doanh nghiệp”, TS. Nguyễn Đức Kiên nói.
Chuyên gia này lấy ví dụ, mục tiêu đặt ra đến 2045 Việt Nam là nước có thu nhập trung bình cao, thu nhập bình quân đầu người từ 12.000 - 15.000 USD. Hiện GDP bình quân đầu người mới quanh mức 3.500 USD, như vậy trong hơn 2 thập kỷ nữa cần tăng gấp 4 lần để đạt được mục tiêu trên. Điều đó có nghĩa cần phải làm thế nào bảo đảm tốc độ tăng trưởng GDP trung bình trong suốt 25 năm tới ở mức trên 7%/năm. Dù đây là thách thức lớn nhưng hệ thống cơ chế, chính sách của Nhà nước do Quốc hội và Chính phủ ban hành phải nỗ lực để đạt được mục tiêu này. Chính phủ - với tư cách là người thiết kế nguyên tắc cuộc chơi - cần đưa ra các nguyên tắc rõ ràng, rành mạch, dễ hiểu để các doanh nghiệp áp dụng.
Thích ứng và tăng khả năng chống chịu
Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập cũng đòi hỏi nền kinh tế muốn mạnh và phát triển lên phải có khả năng thích ứng cao, giảm thiểu được những tác động trước những cú sốc bên ngoài. Vì vậy theo các chuyên gia, nâng cao được khả năng thích ứng, khả năng chống chịu để đạt được các mục tiêu đặt ra cả trong ngắn và dài hạn là những yếu tố quan trọng trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
PGS.TS. Vũ Sỹ Cường - Phó Trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính của Học viện Tài chính nhận định, nhìn vào các chỉ số đánh giá ổn định vĩ mô cho đến hiện nay có thể khẳng định sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam vẫn tốt. Bên cạnh đó, chúng ta đang kiểm soát tốt dịch bệnh Covid; tự chủ được lương thực, thực phẩm; xuất khẩu vẫn tích cực… đây là những yếu tố rất quan trọng giúp có được sức chống chịu trong bối cảnh hiện nay.
Nhưng bối cảnh bên ngoài đang bất định hơn, giá dầu mỏ và hàng hóa cơ bản tăng mạnh, áp lực lạm phát cao. Trong khi đó, đại dịch kéo dài hơn 2 năm qua cũng khiến tiết kiệm của người dân đã giảm rất mạnh. Chuyên gia này cho rằng, tiết kiệm của người dân là bệ đỡ cho mọi hoạt động nên khi tiết kiệm giảm thì bệ đỡ - phần để “lùi” thêm không còn nhiều nữa. Để tránh những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài, cũng như tăng sức chống chịu việc triển khai quyết liệt Chương trình phục hồi đi kèm các chính sách, biện pháp tạo ra việc làm, ổn định thu nhập cho người lao động là rất quan trọng.
Trong khi đó theo TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh, sức chống chịu của mỗi nền kinh tế một khác. Với Việt Nam, dù là nước còn thâm hụt ngân sách nhưng những năm qua tính bền vững của ngân sách đã tốt lên, các nền tảng vĩ mô tốt lên; giữ được lạm phát tương đối thấp; hệ thống tài chính-ngân hàng lành mạnh hơn… Tuy nhiên, để nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng của nền kinh tế, có một số nhóm nhiệm vụ rất quan trọng cần tập trung.
Thứ nhất về vĩ mô, tiếp tục nâng cao tính bền vững của cân đối ngân sách, sự lành mạnh của hệ thống tài chính - ngân hàng với tính tự chủ cao và chính sách tiền tệ linh hoạt. Thứ hai về cơ cấu kinh tế, với một đất nước hội nhập đã rất sâu rộng thì cần cân đối giữa khả năng cạnh tranh, tận dụng cơ hội của hội nhập và thị trường trong nước. Thứ ba với doanh nghiệp, cần nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro.
Nhóm nhiệm vụ khác cũng rất quan trọng là hệ thống an sinh xã hội. Với Việt Nam, bên cạnh xây dựng khung khổ cho bảo hiểm an sinh xã hội mà chúng ta có thể học hỏi từ rất nhiều nước, cần kết hợp và phát huy tính đùm bọc, tình thương yêu nhau. Điều này đã được thể hiện trong cú sốc đại dịch Covid vừa qua và cho thấy rất có ý nghĩa.
Ngoài ra, các ứng xử với các cú sốc rủi ro (dù từ bên ngoài hay bên trong) không chỉ là nguồn lực để ứng phó mà còn là cơ chế quyết định cũng như khả năng thực thi quyết liệt, kịp thời. Các chuyên gia cho rằng, các cú sốc thiên tai, tài chính tiền tệ, rủi ro địa chính trị… vẫn rất nhiều mà không ai dự báo hết được. Quan trọng là chủ động về tâm thế, chuẩn bị về nguồn lực, thích ứng kịp thời và sẵn sàng hành động nhanh, quyết liệt. Và qua mỗi lần sức chống chịu tốt lớn như vậy, nền kinh tế cũng ngày càng độc lập, tự chủ hơn.
Báo cáo cập nhật KTVM Việt Nam tháng 4/2022 của WB khuyến nghị, trong trung hạn, việc xây dựng hệ thống đảm bảo xã hội có mục tiêu, hiệu quả và có khả năng ứng phó tốt hơn sẽ giúp tăng cường khả năng chống chịu với các cú sốc bên ngoài như cú sốc tăng giá hàng hóa thế giới hiện nay. Cùng với đó, nên cân nhắc những cải cách mang tính cấu trúc để nâng cao năng suất của nền kinh tế và tăng tổng cung. Các biện pháp có thể tính đến bao gồm: Giảm thuế đối với các hoạt động đầu tư sản xuất và đổi mới sáng tạo; giảm rào cản trong môi trường kinh doanh; giảm chi phí logistics; tăng cường đầu tư vào giáo dục và đào tạo kỹ thuật cho lực lượng lao động. |