Kiên cường trong thế giới suy thoái
08:00 | 11/02/2021
Đó là cảm nhận của các tổ chức tài chính nước ngoài về kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua. Theo đó Việt Nam là một trong số ít các quốc gia vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. Thời báo Ngân hàng xin giới thiệu tới độc giả những đánh giá tích cực này.
Bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam:
Tăng trưởng ấn tượng
Bà Carolyn Turk |
Việt Nam đã thực hiện tốt và thể hiện tính kiên cường trong tình hình thế giới suy thoái và đứng đầu bảng xếp hạng thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2020. Việt Nam là một trong số ít các nước có tăng trưởng dương và là một trong những điểm đến an toàn được các nhà đầu tư ngoài nước tìm đến.
Bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam bày tỏ sự ấn tượng khi chia sẻ với Thời báo Ngân hàng nhân dịp Xuân Tân Sửu.
Đón năm mới đang tới, nhớ lại năm vừa qua, đâu là ấn tượng nhất của bà về Việt Nam?
Sự tăng trưởng ấn tượng và phục hồi một cách kiên cường của nền kinh tế Việt Nam nhờ đưa ra hành động nhanh và dứt khoát trong việc kiểm soát dịch bệnh và nhanh chóng đưa ra chính sách hỗ trợ và duy trì sự tăng trưởng của nền kinh tế. Thực tế cho thấy với sự điều hành rất ấn tượng của Chính phủ Việt Nam trong chống dịch và hồi phục kinh tế, nền kinh tế Việt Nam chịu ít thiệt hại hơn các nước Đông Á khác.
Sự kiên cường thể hiện ở cả yếu tố trong nước lẫn nước ngoài. Ở trong nước, các hoạt động công nghiệp và dịch vụ sau lệnh đóng cửa tháng Tư, và hoạt động hạn chế trong tháng Bảy, đã bật mạnh trở lại nhờ Chính phủ quyết liệt kiểm soát dịch bệnh đồng thời đưa ra gói hỗ trợ sản xuất kinh doanh, theo đó người tiêu dùng trong nước và các nhà đầu tư đã lấy lại được niềm tin, hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh được duy trì và dần tăng trở lại.
Với yếu tố từ bên ngoài, Việt Nam dường như là một ngoại lệ trong cuộc khủng hoảng Covid-19, xuất khẩu vẫn tăng khá và đạt được mức thặng dư thương mại cao nhất từ trước đến nay.
Theo bà, sẽ có những cơ hội nào mới trong năm mới?
Tôi thấy có vài cơ hội mới cho Việt Nam. Chính rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới và căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ thúc đẩy sự dịch chuyển của các công ty đa quốc gia từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Bên cạnh đó, thành công của Việt Nam trong việc kiểm soát Covid-19 và phục hồi kinh tế nhanh là lời quảng bá tốt nhất, lôi cuốn các công ty đa quốc gia chuyển hoạt động của họ sang Việt Nam.
Đồng thời, trong đại dịch đã dẫn đến một sự thay đổi nhanh ở các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là chuyển đổi số và môi trường kinh doanh tốt hơn – làm cho Việt Nam trở nên thu hút hơn. Chúng tôi nhận thấy đã có gần 60% doanh nghiệp bắt đầu hoặc tăng việc sử dụng các nền tảng kỹ thuật số vì Covid-19.
Và các hiệp định thương mại tạo thêm cơ hội mới cho Việt Nam trong khi những nơi khác trên thế giới lại đang gia tăng rào cản thương mại. Trong đó, quan trọng nhất là các hiệp định FTA giữa Việt Nam - EU, hiệp định CPTPP, và ASEAN – Hong Kong FTA, và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực - RCEP.
Với quan sát và kinh nghiệm của bà, sẽ có những rủi ro nào cần lường tránh?
Trong tình hình kinh tế thế giới đã mấp mé khủng hoảng vì dịch bệnh và có thể sẽ còn phức tạp hơn nếu đại dịch kéo dài hơn dự kiến, chúng tôi nhận thấy có thể sẽ có một số rủi ro.
Thứ nhất là rủi ro xã hội: Ảnh hưởng của Covid-19 tới thị trường lao động và các hộ gia đình còn đọng lại. Số lượng người có việc làm vẫn chưa quay trở lại mức trước khi có dịch Covid, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của các hộ gia đình. Vì vậy, các chương trình an sinh xã hội của đất nước cần phải đảm bảo rằng các nạn nhân hiện tại và tương lai của thiên tai và suy giảm kinh tế sẽ nhận được đủ sự hỗ trợ.
Thứ hai là cần phải thận trọng với rủi ro nợ xấu gia tăng.
Thứ ba là rủi ro trong ổn định tài khóa. Không gian tài khóa đang thu hẹp với chi phí đầu tư gia tăng đáng kể và nguồn thu ngân sách rất khó khăn. Nếu sự hồi phục kinh tế thế giới bị đình trệ, Chính phủ có thể sẽ cần phải cân bằng việc hỗ trợ nền kinh tế qua tổng cầu và cần phải đảm bảo ổn định tài khóa trung hạn đến dài hạn.
Nhưng thắt chặt tài khóa quá sớm có thể ảnh hưởng tới tốc độ hồi phục kinh tế vì thế cần có lộ trình để đạt được mục tiêu ổn định tài khóa và cần quản lý nợ tốt hơn.
Việt Nam cần phải làm gì để khôi phục nền kinh tế sau khủng hoảng Covid-19 và đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra?
Việt Nam nên tận dụng cơ hội này để trở thành đại sứ khôi phục bằng năng lượng xanh. Vì sao ư? Vì vấn đề giải quyết những thách thức do môi trường và thay đổi khí hậu gây ra đang trở nên rất cấp thiết. Thiệt hại về người do thiên tai gây ra nghiêm trọng hơn nhiều so với đại dịch toàn cầu.
Tập trung giải quyết vấn đề về môi trường sẽ giúp Việt Nam phát triển bền vững, đồng thời khôi phục khả năng tài chính, tạo ra công ăn việc làm cho người dân và thúc đẩy các hoạt động kinh tế khác.
Chính phủ nên đưa ra các chính sách đồng thời thúc đẩy nền kinh tế và môi trường bền vững. Ví dụ như ưu tiên đầu tư vào năng lượng sạch, hoặc các chính sách hỗ trợ có điều kiện với doanh nghiệp để giảm khí thải. Để khuyến khích các hành vi có trách nhiệm với môi trường, thì nên khuyến khích phương tiện giao thông thân thiện môi trường, khuyến khích việc sử dụng năng lượng tái tạo ở các hộ gia đình và phục hồi các hệ sinh thái cũng cần được thực hiện. Điều chỉnh thuế để tăng giá thành của những tài nguyên không tái tạo hoặc gây ô nhiễm cũng là một biện pháp.
Công tác cải cách thủ tục hành chính tại Việt Nam năm 2020 có tạo được dấu ấn nào hay không, thưa bà?
Chúng tôi thấy năm 2020, Chính phủ tiếp tục cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính và đã đạt được thành tựu đáng kể. Hàng trăm thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh đã được cắt giảm, nâng tổng số điều kiện kinh doanh được loại bỏ lên gần 4.000 (trong tổng số 6 nghìn điều kiện) kể từ đầu nhiệm kỳ của Chính phủ năm 2016.
Cổng Dịch vụ điện tử Quốc gia, là một phần của chiến dịch cải cách kỹ thuật số, đã giúp đưa dịch vụ công một cửa đến doanh nghiệp và công dân, khiến cho việc sử dụng dịch vụ công trở nên thuận tiện hơn, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Với 1.000 dịch vụ công đã được cung cấp trực tuyến, Cổng thông tin đã ghi nhận hơn 92 triệu lượt truy cập và gần 1 triệu giao dịch cho đến nay.
Tuy nhiên, thách thức hơn cả là làm sao đảm bảo chất lượng của các dịch vụ hành chính và ngăn chặn các cơ quan thuộc Chính phủ không đưa ra các rào cản kinh doanh hoặc rào cản tiếp cận với các dịch vụ công. Điều đó không chỉ đòi hỏi Chính phủ phải có những hành động cải cách mạnh mẽ, cơ chế phản hồi hiệu quả cũng cần phải được đề ra để Chính phủ lắng nghe tiếng nói của người dân và doanh nghiệp.
Tôi chúc Chính phủ thực hiện tốt chương trình cải cách quan trọng trong những năm tới và Ngân hàng Thế giới sẽ sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ để đạt được những nỗ lực này.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của bà!
Tri Nhân ghi
Việt Nam đứng đầu bảng xếp hạng thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2020. (Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Việt Nam: Báo cáo điểm lại, tháng 12 năm 2020) |
Ông Andrew Jeffries - Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam:
Điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu
Ông Andrew Jeffries |
Đại dịch Covid-19 đã gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn về sức khỏe, sinh mạng và tác động nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế toàn cầu trong năm 2020. Suy thoái kinh tế do Covid-19 lần này thậm chí còn tồi tệ hơn cả cuộc Đại suy thoái năm 1930. Theo phụ bản thường kỳ của báo cáo Cập nhật Triển vọng Phát triển châu Á 2020 vừa được Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) công bố vào tháng 12/2020, tăng trưởng kinh tế trong khu vực Đông Nam Á được dự báo sẽ sụt giảm còn -4,4% trong năm 2020, trước khi có thể tăng trưởng trở lại ở mức 5,2% trong năm 2021.
Thế nhưng bất chấp những khó khăn, thách thức từ đại dịch Covid-19, nền kinh tế của Việt Nam vẫn là điểm sáng với những nền tảng vững vàng. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Việt Nam nằm trong số ít các quốc gia đã thành công trong việc kiểm soát đại dịch, đồng thời duy trì được mức tăng trưởng dương. Trong báo cáo vừa qua, ADB đã điều chỉnh nâng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2020 và sẽ bứt phá đạt mức 6,1% trong năm 2021.
Việc nhanh chóng kiểm soát được sự lây lan của đại dịch Covid-19 đã giúp duy trì tiêu dùng và du lịch trong nước nhưng quan trọng hơn là đã giữ vững niềm tin của người tiêu dùng và cộng đồng DN vào triển vọng phục hồi của nền kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công và tăng cường chi tiêu đã và đang có tác động kích thích cấp số nhân lên tăng trưởng và việc làm.
Mặc dù đại dịch Covid-19 vẫn diễn biến hết sức phức tạp ở nhiều quốc gia lớn là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, xuất khẩu của Việt Nam vẫn là một điểm sáng, với mức xuất siêu đầy ấn tượng đạt trên 19 tỷ USD trong năm 2020. Mở rộng thương mại được kích hoạt bởi chuyển hướng thương mại và nhiều hiệp định tự do thương mại quan trọng có hiệu lực đã thúc đẩy ngành sản xuất và nông nghiệp dẫn đầu về xuất khẩu.
Việt Nam đã và tiếp tục được hưởng lợi từ các hiệp định thương mại tự do như EVFTA, CPTPP, và mới đây là RCEP, UKVFTA. Nhu cầu từ các đối tác thương mại gia tăng khi các nền kinh tế này hồi phục sẽ mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu. Do quan hệ kinh tế chặt chẽ giữa hai quốc gia, sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc cũng sẽ hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Cơ hội cũng mở ra cho Việt Nam trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thương mại và đầu tư toàn cầu. Với sự cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, với tiềm năng của thị trường trong nước, cùng với những nỗ lực mở rộng thị trường thông qua các hiệp định tự do thương mại, Việt Nam càng có nhiều cơ hội để thu hút nguồn đầu tư chất lượng cao từ các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam cần phải tập trung đầu tư nhiều hơn nữa vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông vì chi phí logistics của Việt Nam vẫn còn rất cao. Việt Nam cũng cần phải tăng cường hơn nữa cơ sở hạ tầng “mềm”, như đẩy mạnh hơn nữa việc cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư đào tạo, phát triển lực lượng lao động có tay nghề cao đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các DN FDI cũng như các DN trong nước.
Cú sốc chưa từng có do đại dịch Covid-19 cũng là cú hích khuyến khích chuyển đổi số. Thương mại điện tử, giao dịch ngân hàng cũng như các dịch vụ tài chính khác trên mạng cũng phát triển mạnh ở Việt Nam trong khi đại dịch bùng phát. Các ứng dụng công nghệ thông tin đang được áp dụng ngày càng nhiều hơn trong sản xuất nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Trong trung và dài hạn, Việt Nam cần có những chính sách tạo điều kiện cho chuyển đổi kỹ thuật số để giúp cải thiện năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Để củng cố cho giai đoạn phục hồi sau đại dịch, Việt Nam cũng cần phải khuyến khích phát triển khu vực tư nhân. Khu vực tư nhân của Việt Nam mà chủ yếu là các DN vừa và nhỏ, vẫn còn phân tán. Khu vực tư nhân rất cần sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ Chính phủ, bao gồm một môi trường thuận lợi để các DN phát triển thành những tập đoàn kinh tế, cũng như tạo điều kiện để các DN trong nước tiếp cận với các nguồn lực tài chính để đầu tư công nghệ mới và mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là tăng cường hiệu quả thể chế, như lãnh đạo Chính phủ thường đề cập tới. Hiệu quả thể chế được cải thiện sẽ khai thác được các tiềm năng kinh tế để phát triển, đặc biệt là khuyến khích nguồn lực từ khu vực tư nhân để phát triển cơ sở hạ tầng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây cũng là những lĩnh vực mà ADB sẽ lồng ghép khi xây dựng Chiến lược Đối tác quốc gia giai đoạn 2021-2025 nhằm hỗ trợ cho các ưu tiên phát triển của Việt Nam trong Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tới.
Anh Tuấn ghi
Ông Nirukt Sapru - Tổng Giám đốc Standard Chartered Việt Nam:
Nền kinh tế phát triển nhanh nhất ASEAN
Ông Nirukt Sapru |
Năm 2020 đánh dấu một năm đầy biến động không chỉ đối với Việt Nam mà còn với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, với nhiều rủi ro và thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra. Với những quyết định quyết liệt và kịp thời, Việt Nam đã đạt được mục tiêu kép: Giảm thiểu tác động của Covid-19 và duy trì ổn định vĩ mô, giữ được tăng trưởng dương. Điều này không chỉ cho thấy khả năng chống chịu được nâng cao của Việt Nam trong việc vượt qua những biến động kinh tế toàn cầu trong những năm gần đây mà còn khẳng định vị thế của Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong ASEAN.
Với những biện pháp quyết tâm và kịp thời, Việt Nam đã khống chế thành công các đợt bùng phát của đại dịch với tổn thất tối thiểu. Chính phủ và NHNN Việt Nam tiếp tục thận trọng, nhất quán trong việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ kịp thời cho cộng đồng DN và người dân. Với những biện pháp mạnh mẽ như vậy, nền kinh tế đã duy trì được đà tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 2,91% vào năm 2020, đây là một thành công trong bối cảnh đại dịch với nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm. Theo dự báo gần đây trong Báo cáo Nghiên cứu Toàn cầu của chúng tôi, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 7,8% năm 2021.
Đối với lĩnh vực ngân hàng, trong năm qua NHNN đã triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ cộng đồng DN, hỗ trợ nền kinh tế ứng phó với đại dịch Covid-19, bao gồm việc ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN để hỗ trợ người vay bị ảnh hưởng bởi Covid-19; Chỉ thị 02 ngày 31/3/2020 về các biện pháp cấp bách chống lại Covid-19; và Công văn 5596 ngày 4/8/2020 về nhiệm vụ ngân hàng chủ yếu nửa cuối năm 2020. Ngoài ra, NHNN đã 3 lần cắt giảm các lãi suất chủ chốt kể từ tháng 3/2020 nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp các TCTD tiếp cận với chi phí vốn thấp hơn; giới hạn lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn dưới 6 tháng và cho vay ngắn hạn cũng đã được cắt giảm 3 lần trong cùng kỳ. NHNN cũng khuyến khích các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để có dư địa giảm lãi suất cho vay hỗ trợ nền kinh tế, hỗ trợ DN.
Nhóm BWG cam kết hỗ trợ Chính phủ Việt Nam xây dựng ngành Ngân hàng lành mạnh và cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam và tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những điểm đến hàng đầu của khu vực đối với FDI - khu vực tư nhân hiện đóng một vai trò quan trọng trong triển vọng kinh tế của đất nước.
Đỗ Lê ghi