Củng cố nội lực để cất cánh cùng FTA
08:00 | 16/02/2021
Theo các chuyên gia, con đường tận dụng FTA nói chung và EVFTA nói riêng của DN không dễ dàng, trong đó đáng kể là những hạn chế trong khả năng nâng tỷ lệ nội địa hóa để đáp ứng quy tắc xuất xứ hưởng ưu đãi của FTA.
Năm ngành hàng xuất khẩu có lợi thế ở Anh | |
Khai trương Cổng thông tin về FTA, doanh nghiệp sẽ không còn phải chạy đôn chạy đáo | |
Tận dụng FTA, cơ hội để phát triển ngành chế biến gỗ |
15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết trong đó có 2 Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới là CPTPP và EVFTA, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và có quan hệ thương mại với trên 230 thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Đặc biệt, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đánh giá, nội hàm của EVFTA rất gần gũi với những vấn đề mà Báo cáo Việt Nam 2035 đưa ra nhằm xây dựng một Việt Nam, thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ. Vì vậy, bà tin tưởng Hiệp định này góp phần giúp cho Việt Nam hướng tới đích đến là nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2035. Tuy nhiên, chúng ta củng cố nội lực, cần chuẩn bị đủ tốt, để tận dụng FTA mới này.
Kỳ vọng và những khoảng trống
Theo ước tính của Bộ Công thương, EVFTA sẽ giúp tăng GDP từ 2,18-3,25 điểm phần trăm trong giai đoạn từ năm 2019-2023 và tăng thêm từ 4,47-5,3 điểm phần trăm trong giai đoạn 2024 đến 2028. Cùng với đó, Hiệp định RCEP đã kết nối với các nền kinh tế lớn trong khu vực khoảng 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới và quy mô GDP tới gần 27.000 tỷ USD sẽ là mắt xích quan trọng để các DN tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu; góp phần vào việc tạo lập cấu trúc thương mại mới, thúc đẩy toàn cầu hóa cũng như góp phần tái cơ cấu chuỗi cung ứng sau khi đại dịch Covid-19 chấm dứt.
Trên thực tế, bất chấp việc thương mại toàn cầu sụt giảm mạnh vì Covid-19, song nhờ có các FTA, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng dương, cán mốc 543,9 tỷ USD vào năm 2020. Theo Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh, với trên 85% dòng thuế được xóa bỏ cho hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang EU ngay sau khi EVFTA chính thức có hiệu lực từ 1/8/2020, Hiệp định này đã giúp bù đắp sự suy giảm của nền kinh tế trong bối cảnh bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, góp phần nối lại hoạt động thương mại quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, các chuyên gia và DN cho rằng vẫn có những hụt hẫng nhất định trong việc tận dụng các FTA so với kỳ vọng. Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho biết, bà vừa vui, vừa buồn khi quan sát các FTA vừa qua. Vui vì có những chỉ tiêu chúng ta đạt được. Song buồn vì chúng ta mải miết chạy theo hai chỉ tiêu xuất khẩu và thu hút FDI, trong khi lại quên đi điều quan trọng nhất đó chính là tăng lợi ích cho chính nền kinh tế Việt Nam.
Bằng chứng là trước khi tham gia WTO, FDI chiếm 50% thị phần xuất khẩu thì từ sau khi tham gia WTO, tỷ trọng này tăng dần lên mức 70% như hiện nay. DN Việt Nam cũng có tăng xuất khẩu, nhưng không nhiều; trong khi nhập siêu không ngừng tăng lên. “Chúng ta nói nhiều đến chỉ tiêu xuất khẩu mà quên đi mất một mục tiêu vô cùng quan trọng đó là nhập khẩu. Trong khi đó, mục tiêu lớn của xuất khẩu là tạo nguồn ngoại tệ để có thể nhập về những thiết bị, vật tư cần thiết và nâng cao khả năng sản xuất, nền tảng của nền kinh tế chứ không phải nhập về để xuất khẩu ra ngoài, hoặc làm hàng tiêu dùng ngay trong nội địa”, bà nói.
Bên cạnh đó, việc mở cửa thị trường đang tạo thành lợi thế cho xuất khẩu của các đối tác bên ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt với các đối tác lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước ASEAN, cán cân thương mại của Việt Nam lại chuyển sang thâm hụt ở mức cao. “Tôi thấy cái đau nhất và hụt hẫng nhất là ở chỗ đó. Và cũng có thể thấy cái hụt hơi của Việt Nam đó là chúng ta tiếp nhận từ bên ngoài vào hàng hóa và nhà đầu tư, nhưng mà không tự nâng tiếp được nội lực của mình lên”.
DN chủ công, chính quyền chủ động
Mặc dù vậy, bà Phạm Chi Lan đặt niềm tin hơn với việc thực hiện các FTA mới với 2 điểm tựa. Thứ nhất, từ việc đúc rút bài học thực hiện 12 FTA trước đây, chúng ta đã ngộ ra một điều nội lực mới là quan trọng nhất, cần thiết nhất và là giá trị cần phải thúc đẩy nhất trong hội nhập. Thứ hai, đại dịch Covid-19 đã đẩy những vấn đề toàn cầu lên một đỉnh cao mới khiến chúng ta không thể không thay đổi. “Tôi tin lần này sẽ tốt hơn vì nó đến vào lúc Việt Nam đang có những khát vọng mới. Trong bối cảnh đó, DN mình muốn sống sót phải thay đổi”, bà nói.
Ông Lương Hoàng Thái - một trong những nhà đàm phán kỳ cựu của Bộ Công thương kể, hiện trong phòng làm việc của ông vẫn treo một bức tranh cổ động từ những năm 80: “xuất khẩu để có tiền nhập khẩu”. Đây cũng là bài học đầu tiên ông ghi nhớ khi học đại học. “Chúng ta tham gia FTA không chỉ đơn thuần vì xuất khẩu con tôm, cân gạo; mà quan trọng hơn là chúng ta kết nối với một nền kinh tế lớn có công nghệ tri thức và cách làm ăn bài bản là định hướng mà chúng ta hướng đến. Vì vậy, bên cạnh xuất khẩu thì nhập khẩu cũng rất quan trọng, đây là kế hoạch hành động quan trọng mà Chính phủ đã chỉ ra”, ông nói.
Nâng cao nội lực để đón nhận được cơ hội từ các FTA càng được minh chứng trong bối cảnh Covid-19. Như Công ty Dệt may 29/3 Đà Nẵng đã đón EVFTA với việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý theo tiêu chuẩn của AFNOR, Pháp để áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2015 và việc xây dựng Xí nghiệp may Duy Trung đạt chứng nhận Nhà máy xanh theo tiêu chuẩn châu Âu trong quý I/2020 đã giúp DN nhanh chóng thích ứng với bối cảnh dịch bệnh Covid. Với 90% doanh số của công ty xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu, dịch bệnh Covid-19 đã làm sản phẩm xuất khẩu chủ lực của DN là veston sụt giảm mạnh. Song bằng uy tín có sẵn với nhiều đối tác lớn, công ty đã nhanh chóng tìm được bạn hàng mới và chuyển đổi hoạt động kinh doanh sang gia công sản phẩm phục vụ y tế như đồ bảo hộ, khẩu trang y tế, khẩu trang vải kháng khuẩn cung cấp cho thị trường Mỹ và Pháp. Vì vậy 3.700 cán bộ nhân viên vẫn đảm bảo việc làm và thu nhập.
Sự chủ động, cũng giúp các DN ứng phó với sức ép và rủi ro đến từ FTA để tồn tại và phát triển tốt. Chủ nhiệm Câu lạc bộ Luật sư Thương mại Quốc tế Đinh Ánh Tuyết kể qua những thực chứng công việc của bà: “Có những doanh nghiệp ngành tôm vào năm 2004 xuất khẩu chỉ đạt 100 triệu USD, nhưng nhờ có chiến lược đối phó với rủi ro nên hiện đã đạt doanh thu xuất khẩu 700 triệu USD. Có những doanh nghiệp trước chỉ ở tầm Việt Nam nay đã vươn lên tầm khu vực”.
Tuy nhiên theo các chuyên gia, con đường tận dụng FTA nói chung và EVFTA nói riêng của DN không dễ dàng, trong đó đáng kể là những hạn chế trong khả năng nâng tỷ lệ nội địa hóa để đáp ứng quy tắc xuất xứ hưởng ưu đãi của FTA. Đơn cử như các DN dệt may, thống kê cho thấy, hiện tỷ lệ nội địa hóa của các DN dệt may mới đạt khoảng 40 - 45%. Ngành dệt vải của Việt Nam hiện nay đạt sản lượng khoảng 2,3 tỷ m2/năm, mới chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu thị trường trong nước…
Trong khi nhiều đối tác tham gia các FTA đi trước chúng ta về công nghệ, kinh tế, hàng hóa và về cơ bản họ đã sẵn sàng tham gia cuộc chơi, DN và các thành phần kinh tế trong nước cần có sự hỗ trợ của chính quyền trong việc tiếp cận, tham vấn thông tin, cũng như tháo gỡ khó khăn khi tham gia các FTA. Cùng với đó là việc thúc đẩy công nghệ phụ trợ và các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước.
Để tận dụng tốt cơ hội mà các FTA mang lại, ông Trần Hữu Huỳnh - Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) khuyến nghị, khâu tổ chức sơ kết, đánh giá việc thực thi từng FTA cần phải được thực hiện thường xuyên. Nếu không, các cơ hội cứ trôi đi, trong khi các đối tác lại khai thác tốt. Theo đó, Chính phủ cần kiểm tra việc thực hiện; Quốc hội cần tổ chức giám sát có hiệu quả từng FTA trên cơ sở đánh giá thực chất được - mất của mỗi FTA.
Nhất Thanh