Hướng tới hoạt động mua bán trái phiếu an toàn, hiệu quả
22:20 | 07/09/2021
Ngày 7/9/2021, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) tổ chức Tọa đàm trực tuyến lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 22/2016/TT-NHNN và Thông tư số 15/2018/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua trái phiếu doanh nghiệp.
Nhiều quy định chặt chẽ
Phát biểu tại Toạ đàm, TS.Nguyễn Quốc Hùng – Tổng thư ký VNBA đánh giá, Thông tư số 22/2016/TT-NHNN và Thông tư số 15/2018/TT-NHNN được ban hành đã có những tác động rất tích cực đến hoạt động mua, bán trái phiếu doanh nghiệp của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là TCTD). Sau nhiều năm áp dụng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng, việc ban hành Thông tư mới thay thế Thông tư về mua, bán trái phiếu doanh nghiệp hiện nay là cần thiết để bảo đảm phù hợp với thực tiễn, tình hình hoạt động của các TCTD, đặc biệt là việc bổ sung quy định về hoạt động mua, bán trái phiếu doanh nghiệp của các TCTD đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch cho hoạt động này.
Liên quan đến nội dung của dự thảo Thông tư TS. Nguyễn Quốc Hùng cho biết, năm 2020, NHNN đã lấy ý kiến của các TCTD và VNBA. Nhiều nội dung Ban soạn thảo vẫn giữ nguyên quan điểm tại dự thảo này và bổ sung thêm nhiều điều khoản khác chặt chẽ hơn so với dự thảo trước và khi thông tư được ban hành sẽ tác động đến hoạt động ngân hàng.
TS.Nguyễn Quốc Hùng – Tổng thư ký VNBA |
Chia sẻ cụ thể hơn những vướng mắc, ông Nguyễn Thành Long - Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế VNBA cho biết, tại Khoản 5 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định: TCTD không được vay vốn của TCTD khác để mua trái phiếu doanh nghiệp. Theo Luật các TCTD không cấm hoạt động này, nên không có sơ sở để đưa ra điều cấm như trên. Việc đưa ra quy định cấm này chưa thực sự phù hợp với nguyên tắc xây dựng pháp luật.
Bên cạnh đó, các TCTD huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm nguồn vốn từ dân cư, tổ chức và các định chế tài chính (bao gồm TCTD khác) và thực hiện quản lý vốn tập trung. Nguồn vốn tập trung được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như đầu tư, cho vay, trả nợ đến hạn... và không tách riêng nguồn hình thành vốn khi sử dụng. Vì vậy, TCTD không có căn cứ để xác định nguồn vốn sử dụng để mua trái phiếu doanh nghiệp được hình thành từ nguồn nào.
Hay tại Điểm e Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định TCTD chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu cam kết mua lại trái phiếu trước hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp phát hành vi phạm quy định pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vi phạm cam kết giữa doanh nghiệp phát hành và TCTD.
Với điểm e Khoản 7, TCTD mong muốn Ban soạn thảo làm rõ điều kiện này có được áp dụng cho trường hợp mua trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp hay không? Thực tế, khi đầu tư thứ cấp, TCTD không thể can thiệp vào phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp của doanh nghiệp phát hành, việc yêu cầu doanh nghiệp phát hành cam kết riêng về điều kiện tại điểm e này nếu như trong phương án phát hành trái phiếu không có nội dung này sẽ rất khó.
Cũng tại Khoản 7 Điều 3 dự thảo Thông tư quy định TCTD chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi trái phiếu doanh nghiệp mà doanh nghiệp phát hành đã thay đổi phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành đối với số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành, ngoài các quy định tại điểm a, b, c, d, e Khoản này, thì TCTD chỉ được mua trái phiếu khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi liên tục 3 năm gần nhất và doanh nghiệp phát hành được xếp hạng ở mức cao nhất theo quy định xếp hạng tín dụng nội bộ, xếp hạng tín nhiệm của TCTD.
Đại diện một ngân hàng đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định trên thành: TCTD chỉ được mua trái phiếu này khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi trong 1 năm gần nhất (căn cứ báo cáo tài chính của công ty mẹ trong trường hợp doanh nghiệp phát hành là công ty mẹ) và doanh nghiệp phát hành được xếp hạng tín dụng nội bộ hoặc xếp hạng tín nhiệm ở mức được cấp tín nhiệm trở lên.
Theo lý giải của đại diện ngân hàng này, vì xét theo 1 năm gần nhất cũng đã đánh giá được tình trạng hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, so sánh nghị định 153/2020/NĐ-CP, doanh nghiệp phát hành không bắt buộc có lãi nên quy định sản xuất, kinh doanh có lãi 1 năm gần nhất cũng đã chặt hơn quy định tại Nghị định 153/2020/NĐ-CP. Bên cạnh đó, tình hình dịch bệnh COVID-19 hiện tại có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, quy định doanh nghiệp phát hành được xếp hạng tín dụng, xếp hạng tín nhiệm ở mức cao nhất rất khó để đạt được, hầu như không khách hàng nào có thể đạt được. Quy định tại dự thảo gián tiếp có thể làm giảm mức đánh giá đối với khách hàng.
Đại diện Ngân hàng Standard Chartered chia sẻ kinh nghiệm nước ngoài về quản lý trái phiếu doanh nghiệp. Theo đó, các nước trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Philippines đều cho phép hoạt động mua đi bán lại. Vậy nên, việc dự thảo quy định TCTD không được mua lại khoản trái phiếu đã bán trong 12 tháng là chưa phù hợp, hạn chế thanh khoản thị trường thứ cấp, hạn chế nhà đầu tư nước ngoài tham gia, có thể kéo lùi sự phát triển thị trường.
Còn theo ông Nguyễn Viết Mạnh – Thành viên HĐTV Agribank, tuy thị trường trái phiếu có thị trường sơ cấp và thứ cấp nhưng dự thảo chưa phân biệt các hoạt động này mà quy định chung nên các ngân hàng rất khó để thực thi. “Áp dụng các quy tắc cấp tín dụng vào hoạt động mua bán trái phiếu là rất khó. Đề nghị Ban soạn thảo nên cân nhắc”, đại diện Agribank đề nghị.
Tăng quyền và trách nhiệm cho tổ chức tín dụng
Về trách nhiệm của TCTD khi thực hiện mua trái phiếu doanh nghiệp, tại Khoản 5 Điều 7 dự thảo Thông tư quy định: “Thực hiện theo dõi, giám sát hoặc thông qua bên thứ ba có chức năng liên quan trong giao dịch để theo dõi, giám sát việc sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu của doanh nghiệp”.
Theo đại diện một TCTD, việc chưa quy định rõ thời điểm cung cấp chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn trái phiếu dẫn tới các TCTD đang có các cách vận dụng khác nhau về thời điểm cung cấp chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn. Có TCTD yêu cầu cung cấp chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn trái phiếu ngay tại thời điểm chuyển tiền đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, có TCTD sẽ yêu cầu cung cấp chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn sau khi chuyển tiền đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và định kỳ 3 tháng hoặc 6 tháng... Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung hướng dẫn thời điểm cung cấp chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn trái phiếu để có sự thống nhất giữa các TCTD.
Ông Trần Phương - Chủ nhiệm Ủy ban Chính sách thuộc Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, quy định yêu cầu doanh nghiệp phát hành cam kết không thay đổi mục đích sử dụng vốn, đây là vấn đề công bằng giữa các trái chủ trong đó TCTD chỉ là một trái chủ. “Theo tôi nên bỏ quy định này, trường hợp vẫn giữ đề nghị bổ sung thêm điều kiện có sự chấp thuận của các trái chủ khác”, ông Trần Phương đề nghị.
Tại Khoản 7 Điều 7 dự thảo Thông tư có quy định trong thời gian nắm giữ đến ngày đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp, tối thiểu định kỳ 6 tháng/lần, TCTD đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đánh giá tình hình tài chính, khả năng thanh toán gốc, lãi trái phiếu của doanh nghiệp phát hành. Trên thực tế đối với khoản đầu tư thứ cấp nội dung đánh giá định kỳ 6 tháng khó thực hiện nên đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại nội dung này...
Ghi nhận các ý kiến của TCTD có nhiều nội dung xác đáng, ông Nguyễn Chí Quang – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN chia sẻ, ngành Ngân hàng mong muốn thị trường vốn nói chung, thị trường trái phiếu nói riêng đạt mục tiêu Chính phủ đề ra mục tiêu doanh số dư nợ của thị trường trái phiếu đạt 20% trong thị trường vốn vào năm 2025. Nhưng ngành Ngân hàng chỉ là một trong những thành viên tham gia trên thị trường trái phiếu.
Hơn thế, lãnh đạo Vụ Chính sách tiền tệ cho hay, theo đánh giá của WB năm 2020, Việt Nam đang là quốc gia có hệ số đòn bẩy tài chính lớn nhất trong nhóm nước đang phát triển dẫn đến rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng là rất lớn. Hơn 50% là dư nợ tín dụng trung, dài hạn trong khi đó nguồn vốn này đang rất hạn hẹp. Trong khi đó, các TCTD vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn quản trị theo thông lệ quốc tế Basel II, tiến tới triển khai Basel III với nhiều quy định chặt chẽ về tỷ lệ an toàn vốn.
Chính vì vậy, nhiều văn bản ban hành gần đây, trong đó có dự thảo sửa đổi Thông tư 22 theo hướng trên làm sao tăng cường kiểm soát chặt chẽ quản trị hoạt động cấp tín dụng nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung đảm bảo an toàn hệ thống. Việc thay thế Thông tư 22 cũng nằm trong định hướng siết chặt an toàn hệ thống, tăng cường kiểm soát chặt chẽ trong quản trị hoạt động hệ thống ngân hàng nói riêng và trong hoạt động cấp tín dụng nói chung...
Chia sẻ về các vấn đề vướng mắc các TCTD đã nêu, đại diện Vụ Chính sách tiền tệ cho rằng, việc NHNN đưa ra quy định cao hơn chuẩn thông lệ thị trường có thể khiến cho TCTD gặp khó khăn khi triển khai ban đầu, nhưng tại dự thảo Thông tư này NHNN đã tăng quyền chủ động cho các TCTD có thể đàm phán với khách hàng trong hình thức cấp tín dụng kèm theo đó là trách nhiệm yêu cầu TCTD phải quản trị việc mua bán trái phiếu doanh nghiệp tương đương với việc quản trị rủi ro cấp tín dụng.
Kết luận Tọa đàm, Tổng Thư ký VNBA Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, dự thảo Thông tư quy định hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp nhưng hiện đang áp dụng với các nguyên tắc cấp tín dụng, vì vậy đề nghị cơ quan soạn thảo nên xem xét, cân nhắc. Với các nội dung kiến nghị chưa được tiếp thu, ông Hùng cũng đề nghị, cơ quan soạn thảo cần có văn bản trả lời để tạo sự đồng thuận trong các TCTD khi chính sách được ban hành.
“Hiệp hội sẽ tổng hợp các ý kiến và có văn bản kiến nghị tới NHNN và cơ quan soạn thảo để khi Thông tư mới được ban hành sẽ đạt được các mục tiêu, vừa đảm bảo TCTD triển khai thông suốt, vừa phù hợp với yêu cầu quản trị đồng thời bảo đảm an toàn cho các TCTD”, ông Hùng chia sẻ thêm.
Hà Thành