Đừng để vuột mất lợi thế dân số vàng
10:22 | 03/11/2021
Thời kỳ dân số vàng của Việt Nam hiện chỉ còn tính bằng số năm ngắn ngủi. Nếu không tận dụng được, nguy cơ “già trước khi giàu” thực sự đang hiện hữu không chỉ với từng cá nhân mà với cả một xã hội, dân tộc.
Cửa sổ cơ hội đang dần đóng lại
Thảo luận trên diễn đàn Quốc hội (Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XV đang diễn ra), đại biểu Trần Văn Sáu (Đồng Tháp) đặt câu hỏi: “Chúng ta thấy gì, nghĩ gì khi dòng người cuồn cuộn trốn chạy về quê chống dịch vừa qua? Phải chăng cơ cấu kinh tế còn bất cập; phát triển đô thị tập trung, thiếu liên kết và sự trục trặc trong kết nối giữa nông thôn và đô thị, chất lượng đào tạo và phân bổ nguồn nhân lực chưa hợp lý?”.
Tổng tỷ lệ phụ thuộc là tỷ lệ số người phụ thuộc 0-14 tuổi và trên 65 tuổi tính trên tổng số người 15-64 tuổi |
Ở tầm vĩ mô, báo cáo “Việt Nam: Thích ứng với xã hội già hóa” do các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB) và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) công bố mới đây cũng cảnh báo, nguy cơ “già trước khi giàu” đồng nghĩa với việc Việt Nam đang phải đối mặt với một loạt thách thức đòi hỏi những nỗ lực cải cách chính sách lớn và đòi hỏi “làm ngay bây giờ hoặc không bao giờ”. “Nếu không có những cải cách căn bản, quá trình chuyển đổi nhân khẩu học sẽ làm giảm đáng kể mức tăng trưởng dài hạn. Cộng với áp lực tài khóa lớn của một xã hội già hóa, điều này có thể dẫn đến tình trạng tăng mức bội chi và tăng mức nợ, tạo ra áp lực làm tăng lãi suất, giảm mức độ thu hút đầu tư trong và ngoài nước vốn rất cần thiết đối với nền kinh tế và đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô”, báo cáo của WB và JICA cảnh báo.
Thực tế Việt Nam đang trải qua quá trình già hóa dân số nhanh chóng. Dân số Việt Nam bắt đầu già hóa vào năm 2015 và đến năm 2035, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có dân số già. Đáng chú ý, không giống như nhiều quốc gia khác đã từng trải qua quá trình chuyển đổi nhân khẩu học này, Việt Nam đang gặp tình trạng "chưa giàu đã già". Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay mới chỉ bằng khoảng 40% so với mức trung bình thế giới, khoảng cách càng xa hơn nếu so với mức thu nhập trung bình cao. “Cửa sổ cơ hội” về nhân khẩu học đang bắt đầu khép lại khi tốc độ già hóa dân số tăng nhanh. Dân số trong độ tuổi lao động đã giảm kể từ năm 2014 và xu hướng trên dự kiến sẽ tiếp tục cho đến năm 2042, khi cửa sổ này sẽ chính thức đóng lại.
Một thực tế khác là, tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ đến hết năm 2020 chỉ đạt 24,5%, không đạt mục tiêu đặt ra theo Kế hoạch cơ cấu lại giai đoạn 2016-2020 và Chính phủ đánh giá việc kết nối cung - cầu trên thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực trong những năm vừa qua chưa đáp ứng được yêu cầu. Những vấn đề của lực lượng lao động (LLLĐ), thị trường lao động do ảnh hưởng của Covid vừa qua càng cho thấy những điểm yếu cần cải thiện.
Cần nhanh chóng cải cách
Thực tế trên cho thấy trong cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn tới, vấn đề phát triển nguồn nhân lực là nội dung tối quan trọng. Cải thiện, duy trì và phát huy được thế mạnh của LLLĐ (cả về quản trị, thị trường, năng suất lao động…) được coi là nhân tố chính để Việt Nam tận dụng được lợi thế và các cơ hội của thời kỳ dân số vàng hiện nay, từ đó giúp tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức thu nhập, cũng như để có tâm thế và tiềm lực tốt hơn cho giai đoạn dân số già trong tương lai.
Theo đại biểu Đinh Ngọc Quý (Gia Lai), cơ hội dân số vàng chỉ đến với mỗi quốc gia một lần và Việt Nam chỉ còn khoảng 20 năm của thời kỳ này do đó cần có các chính sách, giải pháp để không chỉ để khắc phục được những hạn chế hiện nay mà còn bù đắp cho LLLĐ sụt giảm và già hóa dân số đang tăng nhanh. “Cần phải quan tâm hơn nữa đến thị trường lao động, đến chất lượng nguồn nhân lực, đến kỹ năng nghề của người lao động để không chỉ đồng hành mà phải chủ động hơn với các thị trường khác thì kế hoạch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2021-2025 mới đạt được hiệu quả và thực chất”, đại biểu Quý nhấn mạnh.
Theo đó, đại biểu Đinh Ngọc Quý nhìn nhận có hai nhóm vấn đề lớn liên quan đến quản trị và phát triển thị trường lao động cần giải quyết. Về quản trị thị trường lao động, từ bài học của đại dịch vừa qua cần bổ sung vào những vấn đề mới phát sinh để định hướng thị trường lao động chủ động hơn, sẵn sàng ứng phó với những tác động khác trong tương lai. Trong khi đó để phát triển thị trường lao động, cơ cấu lại thị trường lao động cần phải được chú ý hơn, nhất là những thay đổi về chất. Đơn cử, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ hiện nay ở mức khoảng 26% nhưng nếu trừ đi trình độ đại học thì các trình độ khác như sơ cấp, cao đẳng, trung cấp đều ở mức rất thấp (dưới 5%). Hay dù nhận thức rõ và coi kinh tế số là một trong những động lực tăng trưởng trong những năm tới nhưng kỹ năng số trong lao động hiện tại vẫn đang xếp ở cuối bảng của khu vực.
Các chuyên gia đều nhận định, nền kinh tế Việt Nam hưởng lợi từ quá trình số hóa nhanh chóng đến mức độ nào sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường lao động. Chính vì vậy, Chính phủ và các bộ, ngành cần quan tâm đầu tư, chú trọng hơn đến các biện pháp cụ thể để thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu phản ánh được cơ cấu lại thị trường lao động về chất lượng.
Cùng quan điểm trên, đại biểu Nguyễn Thị Sửu (Thừa Thiên - Huế) cho rằng, phát triển thị trường lao động phải gắn với chuyển đổi số, tập trung phát triển tài nguyên con người, cốt lõi là LLLĐ. Việc tỷ lệ tham gia LLLĐ cao nhưng bắt đầu có xu hướng giảm trong 3 năm trở lại đây ngày càng đặt ra thách thức cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, đặc biệt là việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, để góp phần tăng năng suất lao động và giải quyết việc làm cho phù hợp cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho người cao tuổi.
Trở lại với câu hỏi và băn khoăn của đại biểu Trần Văn Sáu, vị này sau đó đề xuất: “Tôi đề nghị Chính phủ cần có đánh giá đúng, đầy đủ về thị trường lao động, có chính sách đầu tư hợp lý để phát triển kinh tế vùng, thu hút lao động, giải quyết việc làm, tổ chức đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề phù hợp để tạo cơ hội việc làm cho người lao động, nhất là nông dân, lực lượng dễ bị tổn thương trong điều kiện kinh tế thị trường, hạn chế tình trạng di dân ồ ạt…”.
Đỗ Lê