PPP xử lý rác thải và chất thải rắn: Chờ văn bản hướng dẫn và hợp đồng mẫu
15:47 | 05/07/2022
Thu hút đầu tư thông qua mô hình hợp tác công tư (PPP) là giải pháp quan trọng để giải quyết bài toán xử lý rác thải và chất thải rắn tại Việt Nam, theo các chuyên gia nhận định tại Tọa đàm Mô hình hợp tác công tư trong xây dựng và vận hành các nhà máy xử lý nước thải và chất thải rắn tại Việt Nam vừa diễn ra.
Dư địa lớn cho nhà đầu tư tư nhân
Ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường phác thảo một bức tranh đầy thách thức đối với việc xử lý nước thải và chất thải rắn ở Việt Nam trong hiện tại cũng như tương lai. Thống kê năm 2021, tổng khối lượng chất thải rắn phát sinh trên địa bàn 45/63 tỉnh/thành phố là khoảng 51.586 tấn/ngày. Ước tính lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tăng 10-16% mỗi năm.
Mặc dù tỉ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở mức cao, khoảng 96,28%, đáp ứng mục tiêu đặt ra tại Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến 2050, tuy nhiên khoảng 71% chất thải rắn sinh hoạt thu gom được xử lý bằng phương pháp chôn lấp.
Đầu tư phát triển hệ thống xử lý chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, trong đó vốn vay ODA là chính. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank), đối với chi phí xử lý rác thải rắn, hiện 75% là do Chính phủ đang tài trợ chi phi vận hành.
Nước thải công nghiệp cũng đang trở thành vấn đề cấp thiết với hàng ngày phát sinh khoảng 650.000 m3. Trong đó, có 88% trong tổng số 697 cụm công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Lượng nước thải sinh hoạt tại Việt Nam phát sinh khoảng 3.650 triệu m3/ngày đêm. Trong đó xử lý tập trung mới khoảng 10%.
Theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95%; Nghị quyết đại hội XIII đặt mục chỉ tiêu xử lý nước thải là 70%. Như vậy, nhu cầu vốn cho việc xử lý chất thải là rất lớn. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực xử lý nước thải, việc tăng chỉ tiêu từ 15% lên 70% trong vòng 10 năm tới cần nguồn đầu tư từ 10-20 tỷ USD.
Cùng chung quan điểm nhiều chuyên gia, ông Đoàn Tiến Giang - chuyên gia về hợp tác công tư của Dự án AEO - Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (USAID) chỉ ra: "Hợp tác công tư là một trong những giải pháp phổ biến mà nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng để giải quyết vấn đề nước thải và chất thải rắn".
Ông cho biết, khu vực tư nhân có thể tham gia vào tất cả các bước trong chuỗi giá trị của lĩnh vực xử lý chất thải rắn, từ việc thu gom, phân loại, lấp hoặc ủ phân hay cao hơn là tái chế, sản xuất năng lượng tái tạo.
Đồng thời, ông cũng khuyến nghị với các dự án thiết kế - xây dựng, nếu ngắn hạn nên áp dụng hợp đồng dịch vụ, nếu dự án trung hạn nên chọn hình thức hợp đồng kinh doanh - quản lý (O&M). Với các dự án mới, có thể áp dụng mô hình hợp đồng xây dựng - chuyển giao - thuê dịch vụ (BTL), hợp đồng xây dựng - thuê dịch vụ - chuyển giao (BLT) áp dụng với các dự án trung hạn. Còn với các dự án dài hạn nên áp dụng xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO) và xây dựng - sở hữu - vận hành (BOO).
Ông cũng chỉ ra nên xem xét mức vốn đầu tư tư nhân tỷ lệ thuận theo thời hạn dự án. Theo đó, việc xem xét hình thức hợp tác sẽ theo thời gian và vốn đầu tư có thể xem xét theo thứ tự BLT/BTL; BOT/BTO; BOO.
Ở Việt Nam, hiện đã có khung pháp lý về PPP mà cao nhất là Luật PPP có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, trong đó xử lý chất thải là thuộc 1 trong 5 lĩnh vực ưu tiên đầu tư với mức đầu tư tối thiếu một dự án là 200 tỷ đồng. Hiện cũng đã có 18 dự án PPP trong xây dựng và vận hành nhà máy xử lý nước thải và chất thải rắn với tổng vốn đầu tư 21.716 tỷ đồng theo các hình thức hợp đồng chính là BOO, xây dựng - chuyển giao (BT), BLT.
PPP trong lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải rắn cũng đang được kỳ vọng có những đột phá mới khi Chính phủ đã giao cho các bộ chịu trách nhiệm hướng dẫn chi tiết các nội dung trong hoạt động đầu tư theo phương thức PPP thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành mình trong quý II/2022.
Cần đảm bảo sự an toàn và bền vững của các đối tác
Tuy nhiên, ông Nguyễn Thượng Hiền cho biết còn khá nhiều vướng mắc trong thực tế triển khai. Chẳng hạn như hiện giá dịch vụ xử lý nước thải, chất thải rắn còn thấp trong khi chi phí vận hành bảo dưỡng hệ thống xử lý yêu cầu kinh phí cao, liên tục; cơ chế huy động nguồn lực từ tư nhân vẫn chưa phát huy hiệu quả, thiếu các cam kết, hỗ trợ cụ thể tạo môi trường thông thoáng và an toàn cho các nhà đầu tư...
Cụ thể như Luật PPP 2020 quy định "thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải là ngành nghề được ưu đãi đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường 2020 cũng đưa xử lý nước thải, chất thải là các hoạt động đầu tư kinh doanh về bảo vệ môi trường được hưởng ưu đại hỗ trợ, nhưng đến đến nay vẫn chưa có các quy định cụ thể áp dụng.
Hơn thế, ông cũng cho rằng nên tuyên truyền phổ biến sâu rộng hơn nữa cho các cán bộ trong công tác bảo vệ môi trường tránh tình trạng chưa hiểu hết chưa hiểu đúng về các quy định pháp luật trong lĩnh vực này. Và cần sớm ban hành các mẫu hợp đồng để khuyến khích cũng như đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia.
Bà Nguyễn Thị Linh Giang, Chánh văn phòng PPP của Cục Quản lý đấu thầu - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho biết hiện có sự giao thao giữa Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên và Môi trường trong lĩnh vực quản lý nước thải và chất thải rắn. Đến nay vẫn chưa rõ đơn vị nào xây dựng thông tư về hợp đồng thực hiện PPP trong lĩnh vực xử lý nước thải, chất thải rắn. Đặc biệt là lĩnh vực xử lý rác thải có tính đặc thù như giá xử lý, công nghệ, người thẩm định công nghệ. Những quy định này là cơ sở để xác định tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá, lựa chọn nhà đầu tư.
Ông Đoàn Tiến Giang cũng chỉ ra những khó khăn chính trong việc áp dụng PPP trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn cần tháo gỡ, đó là tính khả thi tài chính không cao. Vấn đề này không chỉ riêng Việt Nam. Thu từ người dân và sản phẩm tái chế không đủ bù đắp chi phí nên nhà đầu tư thường yêu cầu nhà nước trợ cấp chi phí; nguồn cung không chắc chắn do nhiều yếu tố tác động như ý thức người dân (ví dụ khi họ không tuân thủ quy định, dẫn đến khối lượng rác không như dự kiến; thay đổi dân cư, lối sống...).
"Vì vậy, làm thế nào đưa ra dự báo và xây dựng cấu trúc hợp đồng PPP theo thực tế đó là thách thức", ông Giang nhấn mạnh.
Một khó khăn lớn khác là hợp đồng PPP phức tạp, thường yêu cầu cam kết ngân sách dài hạn từ 1 hoặc nhiều chính quyền địa phương. Vì vậy, nhà đầu tư lo ngại cam kết hỗ trợ tài chính không được đảm bảo khi thay đổi nhiệm kỳ, hoặc chính sách thay đổi...
Đây là những vấn đề cần sớm được tháo gỡ mà như ông Vũ Tiến Lộc, nguyên Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh: "Khung pháp lý PPP đã có nhưng thành công hay không thì cần giải quyết một trong vấn đề quan trọng là văn bản hướng dẫn và mẫu hợp đồng phù hợp thực tiễn, đảm bảo sự an toàn và bền vững của các đối tác trong mối quan hệ này, để PPP không chỉ là một phương thức huy động vốn mà còn hội tụ được sức sáng tạo, trí tuệ của khu vực tư nhân...".
Nhất Thanh