Triển vọng kinh doanh tích cực
Khảo sát “Thực trạng của các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài năm 2022” được Jetro tiến hành tại 20 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á, châu Đại Dương (nơi các doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư) và công bố ngày 13/2 cho thấy, trong số 4.392 doanh nghiệp trả lời hợp lệ có 603 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam, nhiều nhất ASEAN.
Theo đó về lợi nhuận kinh doanh, tỷ lệ doanh nghiệp dự báo có lãi trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam năm 2022 là 59,5%. Tỷ lệ doanh nghiệp bị lỗ là 20,8%. Các con số này so với ASEAN cũng như toàn khu vực châu Á, châu Đại Dương là tương đối thấp.

Trong đó, dự báo lợi nhuận kinh doanh của Việt Nam theo ngành nghề, tỷ lệ doanh nghiệp có lãi của ngành chế tạo là 61,1%; tỷ lệ doanh nghiệp có lãi của ngành phi chế tạo là 57,6%.
Về mức độ cải thiện/suy giảm triển vọng lợi nhuận kinh doanh năm 2022 so với năm 2021, số doanh nghiệp trả lời “cải thiện” là 47,6%, “suy giảm” là 22,6%.
Với triển vọng lợi nhuận kinh doanh năm 2023 (so với năm 2022), số doanh nghiệp trả lời “cải thiện” là 53,6%; số doanh nghiệp trả lời “suy giảm” là 6,9%.

Lý do “cải thiện” chính ở cả ngành chế tạo và phi chế tạo đều là do phục hồi sau đại dịch và tác động từ việc nới lỏng hạn chế đi lại sau dịch. Trong khi đó, lý do “suy giảm” chủ yếu là do chi phí mua nguyên vật liệu, logistics, chi phí nhân công… tăng và biến động tỷ giá.
“Triển vọng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam đã hồi phục mạnh sau đại dịch Covid-19”, ông Nakajima Takeo, Trưởng đại diện Jetro Hà Nội khẳng định trong chia sẻ tại buổi họp báo công bố kết quả khảo sát này.
Mức độ sẵn sàng mở rộng kinh doanh cao nhất ASEAN
Với triển vọng lợi nhuận phục hồi, kinh doanh thuận lợi hơn, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng sẵn sàng mở rộng các hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Cụ thể về phương hướng triển khai kinh doanh trong 1-2 năm tới, tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản trả lời sẽ “mở rộng” hoạt động kinh doanh tại Việt Nam là 60,0% (tăng 4,7 điểm so với năm trước), đứng đầu ASEAN và xét trong toàn khu vực châu Á, châu Đại Dương thì chỉ sau Ấn Độ, Bangladesh.
Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp trả lời sẽ “thu hẹp” hoặc chuyển sang nước, khu vực, vùng lãnh thổ thứ ba chỉ 1,1%.

Về phương châm mở rộng kinh doanh tại Việt Nam xét theo ngành nghề, số doanh nghiệp trả lời “mở rộng” ở ngành chế tạo là 54,4%; Ngành phi chế tạo là 65,9%. Đặc biệt trong ngành phi chế tạo, số doanh nghiệp vừa và nhỏ có mong muốn mở rộng đầu tư kinh doanh tăng mạnh.

Các yếu tố như: Tiềm năng tăng trưởng cao; Tăng doanh thu nhờ mở rộng khối lượng/thị trường xuất khẩu; Tăng doanh thu do tăng sức mua tại thị trường nội địa… là những lý do chính mà các doanh nghiệp Nhật Bản muốn mở rộng kinh doanh tại Việt Nam.
Trong triển khai kinh doanh từ nay về sau, một số yếu tố được các doanh nghiệp Nhật Bản đặc biệt quan tâm bao gồm: Xem xét lại chuỗi cung ứng, thu mua; Xem xét lại chuỗi cung ứng, sản xuất (nhất là tăng cường đầu tư thiết bị, đầu tư mới; thúc đẩy tự động hóa, tiết kiệm lao động; thúc đẩy số hóa…); Xem xét lại hệ thống quản lý, kinh doanh; Thay đổi số nhân viên làm việc ở nước ngoài và số nhân viên nước sở tại.
Ví dụ, hơn một nửa (56,5%) doanh nghiệp trả lời có dự định xem xét lại điểm thu mua từ nay về sau. Theo đó, các doanh nghiệp muốn thúc đẩy thu mua nội địa hóa cao hơn để ứng phó với các rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng. Biểu hiện cụ thể là muốn chuyển điểm thu mua từ Trung Quốc hoặc từ Nhật Bản sang Việt Nam.

Thách thức và những đề xuất
Khảo sát này cũng cho thấy, các doanh nghiệp Nhật Bản nhìn nhận môi trường kinh doanh của Việt Nam tích cực về khả năng tăng trưởng, nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức. Đơn cử, số doanh nghiệp nêu ra những lợi thế về tính tăng trưởng của thị trường cao hơn mức trung bình của ASEAN tới 17,2 điểm. Tuy nhiên, số doanh nghiệp nêu ra những rủi ro như tính hiệu quả của các thủ tục hành chính (cấp phép, hiệu quả trong hệ thống thuế và thủ tục thuế…) cũng cao hơn mức trung bình của ASEAN là 19,2 điểm.
Ngoài ra, các vấn đề về tăng lương, tăng chi phí đầu vào, chi phí vận chuyển, vẫn còn những chi phí không chính thức… cũng được khảo sát này chỉ ra là một phần những nguyên nhân có thể làm mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc tiếp tục mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam.

“Lãng phí về thời gian và chi phí cho các loại thủ tục gây cản trở cho hoạt động kinh doanh và đầu tư mới. Doanh nghiệp Nhật Bản chú trọng việc tuân thủ quy định, do vậy họ kỳ vọng môi trường kinh doanh tốt để dễ dàng hoạt động”, ông Nakajima Takeo nói.
Từ những kết quả trên, khảo sát này cũng đặt ra những kỳ vọng đối với Chính phủ Việt Nam. Trong đó, cần loại bỏ các khoản chi phí không chính thức trong các thủ tục hành chính và quy định các chi phí công rõ ràng.
Về phát triển nguồn nhân lực, mong muốn mở rộng các trường đào tạo nghề và các trường đại học công nghiệp, kỹ thuật, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn.
Mong muốn hoàn thiện môi trường pháp lý để xúc tiến đổi mới sáng tạo (innovation) và hoàn thiện hệ thống thông tin liên quan đến môi trường đầu tư của các địa phương Việt Nam (đặc biệt làm sao để doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận). Cuối cùng là mong muốn có nhiều cơ hội đối thoại giữa doanh nghiệp Nhật Bản (và doanh nghiệp nước ngoài nói chung) với các cơ quan Chính phủ nhiều hơn nữa.
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/viet-nam-dung-dau-asean-trong-lua-chon-mo-rong-kinh-doanh-cua-doanh-nghiep-nhat-136202.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.