| Ông Sandeep Mahajan, chuyên gia Kinh tế trưởng (WB) tại Việt Nam |
Chia sẻ cảm nhận về môi trường kinh tế vĩ mô (KTVM) Việt Nam thời gian qua và tác động của nó đến niềm tin của các nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài, ông Sandeep Mahajan, chuyên gia Kinh tế trưởng, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam nói: “Việc Chính phủ thực hiện các chính sách theo hướng thận trọng đã giúp KTVM của Việt Nam được củng cố ổn định trong thời gian từ cuối 2011 đến nay.
Đặc biệt, việc NHNN Việt Nam đã có những phản ứng rất kịp thời với tình hình cùng với giá cả lương thực được kiểm soát tốt tại Việt Nam đã giúp cho lạm phát được kiểm soát.
KTVM ổn định, chính trị ổn định và lợi thế nhân công là những yếu tố khiến các NĐT nước ngoài khá lạc quan về Việt Nam. Nguồn vốn FDI thời gian qua vào Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng tích cực cho thấy điều này. Đặc biệt là đầu tư từ Nhật Bản, Hàn Quốc… vì họ đánh giá lao động Việt Nam vẫn có hiệu quả, năng suất”.
Trong báo cáo cập nhật tình hình và triển vọng kinh tế Việt Nam mới đây của WB có đề cập đến việc Việt Nam cần đẩy mạnh thuận lợi hóa thương mại và năng lực cạnh tranh. Ông có thể cho biết rõ hơn về vấn đề này?
Việt Nam đã thực hiện tốt trong việc định hướng xuất khẩu những năm qua. Thể hiện ở thực tế xuất khẩu vẫn tăng trưởng tốt trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu suy giảm. Nhưng khi nhìn cụ thể vào tình hình từng ngành xuất khẩu, chúng ta thấy phần lớn là thuộc lĩnh vực gia công, công nghệ thấp, hàm lượng giá trị gia tăng chưa cao và tốn nhiều sức lao động.
Nhìn về phía trước, nếu Việt Nam muốn tiến đến những nấc thang phát triển cao hơn thì cần phải chú trọng hơn về các hàng hóa công nghệ cao, tăng thêm giá trị cho hàng hóa xuất khẩu hiện tại. Để làm được điều này thì việc thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại cần được quan tâm đặc biệt.
Thực tế, việc tạo thuận lợi thương mại là một trong những điểm thu hút NĐT nước ngoài vào Việt Nam những năm qua. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra, vẫn còn nhiều việc cần làm để giúp tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động thương mại cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Bởi so với một số nước đối thủ cạnh tranh khác thì Việt Nam đang bị tụt hậu trong một số lĩnh vực. Đặc biệt là trong các vấn đề như: Hạ tầng giao thông và kho vận (cần tập trung cải thiện về chi phí và mạng lưới vận chuyển hàng hóa); Các thủ tục và quy định về thương mại chưa đạt đến mức độ thuận lợi nhất có thể; Còn khoảng cách lớn trong tổ chức chuỗi cung ứng.
Đây chính là những trụ cột Việt Nam cần thúc đẩy cải cách để thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.
Vậy các vấn đề chính mà Việt Nam đang gặp phải trong thu hút đầu tư hiện tại là gì?
Hiện tại, Việt Nam vẫn là điểm đến thu hút các NĐT nước ngoài với các lợi thế về chi phí nhân công, vị trí địa lý… Nhưng rõ ràng không thể “ỷ” vào các lợi thế như vậy mãi nếu muốn phát triển tốt hơn và tăng cường khả năng cạnh tranh.
Trong tương lai các NĐT nước ngoài cần gì? Rất nhiều, trong đó tôi chắc chắn rằng, họ sẽ cần một lực lượng lao động có kỹ năng và chất lượng tốt hơn; kỷ luật lao động và năng suất cao hơn. Đó cũng chính là vấn đề Việt Nam cần thúc đẩy để có những cải thiện bên cạnh các vấn đề mà tôi vừa đề cập ở trên.
Đánh giá của ông về triển vọng thu hút đầu tư của Việt Nam thời gian tới?
Tôi nghĩ có 2 yếu tố cần chú ý. Thứ nhất, Việt Nam là một nền kinh tế mở, với độ mở lên tới 180% GDP, tức là một trong những nước nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. Theo đó, những biến động trên thế giới sẽ ngày càng có tác động mạnh mẽ và là các gợi ý cho Việt Nam.
Nếu kinh tế toàn cầu không vận hành tốt, đây sẽ là tin xấu đối với kinh tế Việt Nam và ngược lại. Nhưng đồng thời, việc Việt Nam có đạt được tăng trưởng kinh tế cao hơn trong tương lai hay không cũng phụ thuộc vào những chính sách của chính Việt Nam nữa.
Bởi vậy, thứ hai là các hoạt động và chương trình tái cấu trúc và cải cách mà Việt Nam đang tiến hành cần được thúc đẩy và làm quyết liệt, cùng với đó là việc kiên định với mục tiêu ổn định KTVM, thực hiện các chính sách vĩ mô thận trọng.
WB cũng nhìn nhận, một trong những trở ngại ngắn hạn đối với Việt Nam hiện nay là khu vực ngân hàng còn “mong manh”, ông có thể lý giải rõ hơn và gợi ý về chính sách?
Điều này thể hiện ở hai mặt: Mong manh của KTVM và mong manh của bản thân khu vực ngân hàng. Khi kinh tế tăng trưởng chậm lại, các thị trường như thị trường bất động sản trầm lắng… thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến khu vực ngân hàng. Trong khi đó, nợ xấu cao, cơ cấu sở hữu chưa có cải thiện, phân loại nợ chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế, các khung pháp luật liên quan đến phá sản, xử lý tài sản đảm bảo còn phức tạp và chưa rõ ràng… cũng dẫn đến tình trạng “mong manh” của khu vực ngân hàng.
Chúng tôi kỳ vọng Chính phủ và các bộ ngành sẽ có các hành động để cải thiện các vấn đề này, ví dụ như liên quan đến việc cho phép tăng sở hữu cho các NĐT chiến lược nước ngoài hay NHNN cần có thẩm quyền mới để thực hiện quyền kiểm toán và các chế tài xử phạt thì sẽ giúp giải quyết những vấn đề mà chúng tôi gọi là “mong manh” của khu vực ngân hàng.
Việc thành lập Công ty VAMC là bước đi quan trọng nhưng cần tiếp tục cải thiện, đặc biệt là năng lực tổ chức, hoạt động và tài chính của VAMC trong thời gian tới.
Xin cảm ơn ông!
Đỗ Lê ghi
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/nhan-cong-van-la-loi-the-cua-viet-nam-1568.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.