Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ I: Tiền đồng, tiền kẽm

Trong 7 năm trị vì (1841–1847), vua Thiệu Trị (Nguyễn Hiến Tổ) kế vị vua Minh Mệnh đã để lại dấu ấn trong chính sách tiền tệ. Ngay năm đầu lên ngôi, ông cho đúc tiền “Thiệu Trị thông bảo” bằng đồng và kẽm với hai loại chính: 6 phân (đường kính 22 mm) và 9 phân (24 mm). Bộ Hộ xin phép đúc kiểu mới để thể hiện chính lệnh mới, vua đồng ý và giao Cục Thông Bảo ở Hà Nội thực hiện. Đến năm 1843, ông tiếp tục cho đúc “Thiệu Trị chế tiền” loại 6 phân, tổng cộng 80.000 quan, cộng với 50.000 quan bằng kẽm trước đó, nâng số tiền kẽm lưu hành lên 130.000 quan. Ngoài việc phát hành tiền mới, vua Thiệu Trị còn cho đúc lại và lưu thông các loại tiền từ đời Gia Long và Minh Mệnh. Năm 1841, triều đình phát 86.000 quan tiền đồng hạng nhỏ chia cho các tỉnh Bắc Kỳ, mỗi tỉnh tùy quy mô nhận từ 4.000 đến 10.000 quan. Sau đó, do vận chuyển thất lạc, vua lại lệnh cho Hà Nội đúc bổ sung hơn 20.000 quan để cấp phát. Chính sách này cho thấy sự quan tâm của vua Thiệu Trị trong việc ổn định tiền tệ và bảo đảm lưu thông kinh tế.
Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ I: Tiền đồng, tiền kẽm

Năm 1840, vua Minh Mệnh băng hà. Tháng 1 năm Tân Sửu (1841), con trưởng của vua Minh Mệnh là Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Nguyễn Hiến Tổ) lên nối ngôi đặt niên hiệu là Thiệu Trị. Trong 7 năm tại vị, so với vua Minh Mệnh trước đó, vua Thiệu Trị cho đúc nhiều về số lượng tiền và phong phú về thể loại.

Tiền đồng, tiền kẽm loại 6 phân, 9 phân.

“Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa xuân, tháng 3… Đúc tiền ‘Thiệu Trị thông bảo’ (tiền đồng hạng lớn, nặng 9 phân; tiền đồng hạng nhỏ và tiền kẽm mới đều nặng 6 phân). Bộ Hộ xin đúc tiền kiểu mới, để tỏ rõ là chính lệnh mới. Vua cho lời tấu ấy là phải. Sai đúc thử đồng tiền mẫu mới. Tiền mẫu đúc xong. Sai giao cho cục Thông Bảo ở Hà Nội để khởi công đúc. Thợ chính ngạch, thợ thuê, lò chính, lò phụ đều do bộ cấp theo như lệ (lệ năm Minh Mệnh thứ 16)”.

-“Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寳 6 phân bằng đồng, đường kính 22 mm

- “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寳 9 phân bằng đồng, đường kính 24 mm.

“Thiệu Trị năm thứ 3 [1843], mùa xuân, tháng 2… Đúc ‘Thiệu Trị chế tiền’ loại 6 phân, gồm 80.000 quan. Trước đây, sai đốc công Vũ Khố đặt trường đúc ‘Thiệu Trị chế tiền’ bằng kẽm, 50.000 quan; tới đây lại sai tiếp tục đúc nữa”.

Như vậy, sau 3 năm đời vua Thiệu Trị cho đúc 130.000 tiền kẽm 6 phân, lưu thông trên thị trường.

Ngoài ra, ông còn cho đúc lại tiền Gia Long và Minh Mệnh. Thư tịch ghi -“[1841], mùa xuân, tháng 3 nhuận… Phát ra 86.000 quan tiền đồng hạng nhỏ cho các tỉnh Bắc Kỳ, tiền Gia Long và Minh Mệnh mỗi thứ một nửa (5 tỉnh to như Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh mỗi tỉnh đều 10.000 quan; 2 tỉnh vừa như Hưng Yên, Ninh Bình mỗi tỉnh đều 6.000 quan; 6 tỉnh nhỏ như Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và Quảng Yên mỗi tỉnh đều 4.000 quan). Sau, vì bọn chở thuyền làm mất cả, vua sai tỉnh Hà Nội theo mẫu đúc lại hơn 20.000 quan tiền đồng chia phát cho các tỉnh”.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ I: Tiền đồng, tiền kẽm
Ảnh 1.11.59. Tiền Thiệu Trị thông bảo 紹治通寳,kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 23,3mm
Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ I: Tiền đồng, tiền kẽm
Ảnh 1.11.60. Tiền Thiệu Trị thông bảo 紹治通寳, kiểu Chân thư, chất liệu đồng pha kẽm, đk 24,4mm,
Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ I: Tiền đồng, tiền kẽm
Ảnh 1.11.61. Tiền Thiệu Trị thông bảo 紹治通寳, kiểu Chân thư - Chất liệu kẽm, đk 23,5mm

Đón đọc Kỳ II: Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Tiền đồng lớn


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/tien-doi-vua-nguyen-hien-to-1841-1847-ky-i-tien-dong-tien-kem-170495.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.