![]() |
| Ông Nishant Kumar, Giám đốc Phụ trách Khu vực Châu Á tại Tập đoàn Phát triển Cơ sở Hạ tầng tư nhân (PIDG) |
Phát triển bền vững, đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và hướng đến thúc đẩy kinh tế tuần hoàn là một mục tiêu đầy “tham vọng” và không dễ dàng. Theo ông, để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần phải có nguồn lực “đủ mạnh” như nào?
Theo báo cáo Global Infrastructure Outlook, Việt Nam sẽ cần gần 600 tỷ USD đầu tư hạ tầng vào năm 2040, có thể dẫn đến “khoảng trống” tài chính gần 100 tỷ USD. Khoản đầu tư này rất cấp bách vì Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3.000 km, dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu. Để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0, đất nước cần nguồn vốn lớn và kịp thời.
Tuy nhiên, thị trường tín dụng trong nước của Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển, nên chưa thể cung cấp nguồn vốn quy mô cần thiết cho các dự án hạ tầng lớn. Chính vì vậy, Việt Nam cần thu hút được nguồn lực của những tập đoàn nước ngoài, phát triển cơ sở hạ tầng với các giải pháp sáng tạo, từ cho vay vốn, bảo lãnh tín dụng, vốn cổ phần, vốn phát triển cho đến hỗ trợ kỹ thuật. Để có thể tham gia vào toàn bộ cấu trúc vốn và chuỗi giá trị hạ tầng nhằm đảm bảo nguồn vốn luôn sẵn sàng đúng nơi, đúng thời điểm phục vụ phát triển bền vững.
Thực tiễn cho thấy, việc ưu tiên đầu tư vào hạ tầng xanh giúp đất nước vừa đáp ứng các mục tiêu về khí hậu và kinh tế, vừa tạo cơ hội huy động vốn tư nhân cho các dự án trọng điểm. Tuy nhiên, nhiều dự án hạ tầng xanh và bền vững tại Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn dài hạn do rủi ro cao và hạn chế về tín nhiệm.
Song có thể nói, đối với mỗi thách thức cần một giải pháp tài chính khác nhau, cũng như không có một mô hình duy nhất phù hợp với mọi dự án. Vì vậy, để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần những giải pháp tài chính sáng tạo, linh hoạt nhằm huy động nguồn vốn dài hạn cho hạ tầng, đặc biệt từ khu vực tư nhân - vốn được xem là ưu tiên quốc gia.
![]() |
| Việc ưu tiên đầu tư vào hạ tầng xanh giúp đất nước vừa đáp ứng các mục tiêu về khí hậu và kinh tế |
Để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận được nguồn tài chính xanh thực hiện được các dự án phát triển hạ tầng bền vững thì doanh nghiệp cần “trang bị” gì để tiếp cận nguồn vốn một cách thuận lợi?
Như đã nói ở trên, mỗi quốc gia đều có những vấn đề khác nhau và cần có giải pháp riêng. Nên cũng không có một giải pháp chung cho tất cả doanh nghiệp. Điều thực sự quan trọng là tính liên tục của chính sách, yếu tố tuyệt đối then chốt. Đồng thời, cần có một danh mục dự án khả thi và sẵn sàng để huy động vốn - những dự án đủ điều kiện để nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể yên tâm tài trợ.
Và làm thế nào để biến những dự án đó đem lại kết quả khả thi cho nhà đầu tư? Bằng đổi mới tài chính. Điều đó có nghĩa là thiết kế và áp dụng các cơ chế giúp giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư trong nước, từ đó khuyến khích họ cung cấp nguồn vốn dài hạn cho phát triển hạ tầng bền vững.
Đây thực chất là việc tạo ra các cấu trúc tài chính kết hợp nhằm thu hẹp khoảng cách giữa nhu cầu vốn của các dự án hạ tầng và yêu cầu của nhà đầu tư cũng như tổ chức cho vay. Một yếu tố then chốt là huy động nguồn vốn bằng nội tệ từ các tổ chức tài chính trong nước. Một cách hiệu quả để làm điều này là thông qua các cơ chế tăng cường tín dụng trong nước, tương tự như mô hình “GuarantCo” giúp giảm rủi ro cho khoản đầu tư và mở khóa dòng vốn từ các nhà đầu tư tổ chức trong nước.
Ở các thị trường phát triển hơn, không chỉ ngân hàng mà còn có quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm và các nhà đầu tư tổ chức lớn khác tham gia cung cấp nguồn vốn dài hạn, bền vững cho các dự án hạ tầng - đó chính xác là điều Việt Nam cần.
Thực tế, Việt Nam hiện có ít nhất 10 - 12 công ty bảo hiểm. Hằng năm, người dân đóng phí bảo hiểm nhân thọ và các công ty này phải tìm kênh đầu tư cho nguồn vốn đó. Hạ tầng là lĩnh vực phù hợp tự nhiên cho một phần nguồn vốn này, với điều kiện đáp ứng được hai yếu tố: bảo toàn vốn và lợi nhuận được điều chỉnh theo lạm phát. Khi có hai yếu tố này, dòng vốn trong nước có thể chảy vào hạ tầng mà không phải phụ thuộc quá nhiều vào vốn ngoại.
Điều này không có nghĩa là đầu tư quốc tế không quan trọng, ngược lại nó vẫn rất cần thiết. Nhưng nếu huy động hiệu quả vốn trong nước, Việt Nam sẽ giảm bớt sự lệ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài.
Cuối cùng, tính minh bạch và thông tin chất lượng cao là yếu tố then chốt. Nhà đầu tư và các tổ chức cho vay dựa vào niềm tin và thị trường tài chính phụ thuộc vào điều đó. Nếu doanh nghiệp kêu gọi vốn không cung cấp dữ liệu rõ ràng, đáng tin cậy, nhu cầu đầu tư vào các dự án hạ tầng có thể sụt giảm nhanh chóng. Ngược lại, khi những yếu tố này được đáp ứng, Việt Nam và các nhà phát triển có thể thu hút dòng vốn dài hạn cần thiết cho tài chính xanh, bền vững.
Trong bối cảnh hiện nay, nguồn lực trong nước còn khá hạn chế, khi muốn huy động nguồn lực từ nước ngoài, theo ông đâu là yếu tố thu hút nhà đầu tư rót vốn vào thị trường Việt Nam?
Đối với bất kỳ nhà đầu tư nước ngoài nào đến Việt Nam, mối quan tâm đầu tiên là tính ổn định của nguồn vốn, bao gồm cả sự an toàn của vốn gốc và độ tin cậy của lợi nhuận. Họ cũng xem xét kỹ lưỡng khung chính sách và quy định: liệu có đủ ổn định để cho phép dòng vốn chảy vào và khi cần, được chuyển ra với sự bảo vệ pháp lý rõ ràng hay không. Đây là những yếu tố then chốt để thu hút đầu tư nước ngoài.
Theo kinh nghiệm của tôi, nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng bị thu hút bởi tiềm năng tài chính xanh và năng lượng tái tạo của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có công suất lắp đặt năng lượng tái tạo cao nhất châu Á, điều này tạo sự hứng khởi và khuyến khích họ đầu tư. Tuy nhiên, điều các nhà đầu tư đánh giá cao là tính liên tục của chính sách. Họ cần sự nhất quán, chứ không phải kiểu “lúc dừng, lúc khởi động” trong quy định và ưu đãi.
Điều đó nói lên rằng, dù vốn ngoại rất quan trọng, nhưng huy động vốn trong nước cũng quan trọng không kém và thường bị đánh giá thấp. Nhiều nỗ lực chỉ tập trung vào việc thu hút các tổ chức cho vay và nhà đầu tư quốc tế, trong khi nguồn lực vốn trong nước đáng kể lại bị bỏ qua. Đạt được sự cân bằng hợp lý giữa vốn nước ngoài và vốn trong nước là rất cần thiết, bởi dòng vốn ngoại chịu tác động mạnh từ tình hình kinh tế vĩ mô và địa chính trị toàn cầu. Nếu những yếu tố này trở nên bất lợi, nguồn vốn nước ngoài có thể cạn kiệt nhanh chóng - nhưng Việt Nam vẫn cần xây dựng đường xá, nhà máy điện và các công trình hạ tầng khác. Trong những trường hợp như vậy, các nhà cung cấp vốn trong nước phải sẵn sàng tham gia.
Ngược lại, nếu Việt Nam gặp bất ổn chính sách trong nước hoặc những thách thức cụ thể trong từng ngành, nhà đầu tư nước ngoài có thể bù đắp “khoảng trống”. Hai nguồn vốn này nên được xem là bổ trợ cho nhau, chứ không phải hai nguồn tách biệt. Chiến lược tài chính của Việt Nam cần kết hợp cả vốn ngoại và vốn nội, đảm bảo khả năng chống chịu và duy trì tăng trưởng bất chấp những biến động của thị trường trong và ngoài nước.
Xin cảm ơn ông!
![]() |
| Chiến lược tài chính của Việt Nam cần kết hợp cả vốn ngoại và vốn nội, đảm bảo khả năng chống chịu và duy trì tăng trưởng |
| Là nhà phát triển và đầu tư hạ tầng quốc tế, huy động vốn đầu tư tư nhân cho các dự án hạ tầng bền vững và toàn diện, nhưng PIDG luôn coi mình là một phần trong chiến lược thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phát triển hạ tầng bền vững, huy động nguồn lực cho các dự án xanh tại Việt Nam. Chính vì vậy, PIDG đang hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý và nhà hoạch định chính sách Việt Nam để hỗ trợ thành lập Cơ chế Tăng cường Tín dụng Việt Nam. PIGD tin rằng cơ chế này có thể huy động hơn 20 tỷ USD vốn trong nước cho các dự án xanh tại thị trường Việt Nam trong thời gian tới. |
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/can-bang-nguon-luc-trong-va-ngoai-nuoc-thuc-day-phat-trien-ben-vung-tai-viet-nam-170747.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.