“Mấu chốt” trong đầu tư phát triển các vùng kinh tế

Ưu tiên đầu tư phát triển các vùng kinh tế, đảm bảo sự kết nối liên thông, phát triển đồng đều giữa các vùng miền... là những đề xuất được các đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm để xây dựng một nền kinh tế tự cường trong bối cảnh phát triển giai đoạn mới.
“Mấu chốt” trong đầu tư phát triển các vùng kinh tế
Nhiều cơ chế chính sách đặc thù được ban hành, từng bước tháo gỡ điểm nghẽn trong đầu tư công và liên kết vùng

Mở rộng không gian phát triển

ĐBQH Khang Thị Mào (Yên Bái) khẳng định, khu vực miền núi có vị trí địa chính trị, kinh tế, văn hóa đặc biệt quan trọng, là phên dậu vững chắc của Tổ quốc. Song đây cũng là vùng kinh tế còn nhiều khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo đa chiều cao nhất cả nước, hạ tầng thiếu đồng bộ, nguồn nhân lực còn hạn chế. Từ đó Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11 ngày 10/2/2022 về phương hướng phát triển kinh tế -xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược của Đảng, Nhà nước, nhằm khai thác các tiềm năng lợi thế, nổi trội, khơi dậy nội lực, thu hút nguồn lực xã hội, đưa vùng này phát triển nhanh, bền vững, thu hẹp khoảng cách với các vùng khác.

Sau đó không lâu, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 96 ngày 01/8/2022 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị, với 17 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và 33 dự án liên kết vùng. Qua hơn 3 năm triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ bước đầu đã đạt được kết quả quan trọng, thể hiện chuyển biến rõ nét về thể chế, quy hoạch, tăng trưởng kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh. Nhiều cơ chế chính sách đặc thù được ban hành, từng bước tháo gỡ điểm nghẽn trong đầu tư công và liên kết vùng.

Cũng quan tâm đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực miền núi, ĐBQH Đặng Thị Bảo Trinh (Đà Nẵng) khẳng định, vùng miền núi, trung du của nước ta là kho báu tự nhiên vô giá, nơi hội tụ cảnh quan hùng vĩ, khí hậu mát dịu cùng những giá trị văn hoá bản địa độc đáo. Từ ruộng bậc thang, thác nước, rừng nguyên sinh đến nghề dệt thổ cẩm, ẩm thực, lễ hội và tri thức dân gian của đồng bào các dân tộc. Đó là nguồn lực phát triển xanh, bền vững. Tuy nhiên, du lịch miền núi vẫn đang bị “cầm chân” bởi chính những hạn chế về hạ tầng và quy hoạch. Nhiều vùng có tiềm năng lớn nhưng vẫn “đứng ngoài bản đồ du lịch quốc gia”.

Bên cạnh đó, ĐBQH Đặng Thị Bảo Trinh dẫn chứng, chỉ trong ít tuần, đất nước ta liên tiếp hứng chịu những đợt thiên tai khốc liệt. Tháng trước, mưa lớn kéo dài đã gây lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng tại nhiều tỉnh miền núi phía Bắc… Chưa kịp khắc phục xong hậu quả, thì những ngày này, các tỉnh miền Trung lại chìm trong mưa lũ, ngập sâu, sạt lở; nhiều khu dân cư bị chia cắt, hàng nghìn hộ dân phải di dời khẩn cấp. Trong khi các lực lượng chức năng đang nỗ lực ngày đêm ứng cứu, hỗ trợ người dân, điều đất nước cần hơn bao giờ hết không chỉ là “tiếp sức” mà là “kiểm soát” và “phòng ngừa” bằng việc đánh giá lại tác động môi trường, rà soát quy hoạch và quản lý phát triển hạ tầng, dân cư phù hợp với quy luật tự nhiên.

Bố trí nguồn lực hỗ trợ kịp thời, hợp lí

Để khắc phục và kiến tạo sự phát triển bền vững cho khu vực này, đây là lúc cần xác lập rõ định hướng “hạ tầng chống chịu thiên tai” trong quy hoạch quốc gia và kế hoạch đầu tư công trung hạn. Ưu tiên cho các tuyến kết nối vùng, đường liên xã, liên tỉnh, đảm bảo lưu thông kinh tế, văn hoá, xã hội phục vụ phát triển khu vực miền núi. Đồng thời cần thiết lập một cơ chế đánh giá tổng thể, liên ngành và theo chuỗi thời gian về tác động cộng hưởng giữa xây dựng – khai thác – quy hoạch dân cư đối với cân bằng sinh thái. Đây phải là điều kiện bắt buộc trước khi phê duyệt các dự án vùng núi. Trên cơ sở đó, Chính phủ cần chỉ đạo xây dựng bản đồ cảnh báo sạt lở về thiên tai, công khai trên hệ thống số quốc gia, để người dân và chính quyền chủ động ứng phó, ĐBQH Đặng Thị Bảo Trinh đề xuất.

Bên cạnh đó, hạ tầng giao thông là “mấu chốt” trong giải pháp phát triển kinh tế vùng. ĐBQH Nguyễn Thị Thu Nguyệt (Đắk Lắk) dẫn chứng, tỉnh Đắk Lắk sau khi sáp nhập, là địa phương có phạm vi lãnh thổ mở rộng trải dài từ vùng duyên hải đến cao nguyên, diện tích lớn thứ ba của cả nước. Việc hình thành tuyến giao thông đường bộ cao tốc Phú Yên- Đắk Lắk là huyết mạch giao thông chiến lược, đóng vai trò xương sống trong hạ tầng thiết yếu của tỉnh sẽ kết nối các trung tâm kinh tế, vùng sản xuất trọng điểm, sân bay và hệ thống cảng biển góp phần thúc đẩy liên kết vùng, thu hút đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho người dân.

Trên cơ sở đó, đại biểu Nguyễn Thị Thu Nguyệt đề nghị Chính phủ quan tâm phê duyệt, bố trí nguồn lực hỗ trợ để địa phương sớm triển khai, thực hiện. Đại biểu cũng đề nghị Chính phủ bổ sung Dự án “đầu tư tuyến cao tốc Đông - Tây tỉnh Đắk Lắk, đoạn từ cao tốc Bắc Nam phía đông đến Quốc lộ 14 vào danh mục đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Trung ương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030, thực hiện phân kỳ đầu tư để có cơ sở cho việc triển khai, thực hiện trong giai đoạn tới.

Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), điểm nghẽn lớn nhất của vùng cũng là giải pháp triệt để về hạ tầng giao thông. ĐBQH Đào Chí Nghĩa (Cần Thơ) cho biết, các dự án liên vùng như giao thông, thủy lợi,và logistics triển khai chưa chặt chẽ, sẽ không đồng bộ, làm tăng chi phí vận tải và giảm hiệu quả thích ứng biến đổi khí hậu. Vì vậy, đại biểu Đào Chí Nghĩa kiến nghị Chính phủ ưu tiên nguồn vốn đầu tư khởi công Cảng biển nước sâu Trần Đề (Sóc Trăng) nghiên cứu tính khả thi để vận hành luồng Định An của sông Hậu và các tuyến Cao tốc trục ngang qua các tỉnh, thành vùng ĐBSCL; hoàn thành đúng tiến độ tuyến cao tốc Cần Thơ - Cà Mau; cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Trần Đề. Việc khơi thông hoạt động đường thủy nội địa và cảng biển sẽ giúp giảm chi phí vận tải từ 10% đến 40%, thậm chí 50%, từ đó tăng cường sức cạnh tranh quốc tế cho nông sản chủ lực của vùng ĐBSCL.

Bên cạnh đó, Chính phủ quan tâm ban hành gói tín dụng xanh ưu đãi đặc thù nhằm hỗ trợ các hợp tác xã, doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp và phát triển kinh tế biển, thủy hải sản, góp phần thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu hiện nay. Chính phủ nghiên cứu thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao và ứng phó với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL tại Cần Thơ vì Trung tâm này không chỉ là nơi ươm mầm cho hoạt động sáng tạo nông nghiệp, nghiên cứu giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL, mà còn là nơi đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, chuyên sâu về kỹ thuật quản lý nước mặn/ngọt và công nghệ canh tác nông nghiệp thông minh. Việc phát triển khoa học và công nghệ phải gắn chặt với điều kiện đặc thù của vùng ĐBSCL.

Đồng thời, Chính phủ cần điều chỉnh quy hoạch vùng ĐBSCL để hình thành các cụm nông nghiệp chất lượng cao, công nghiệp chế biến, tăng sức cạnh tranh về nông sản cho vùng ĐBSCL; sử dụng tối đa nguồn lực khi chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp; từ đó nâng cao đời sống bà con nông dân thực hiện tốt mục tiêu “ly nông” nhưng không “ly hương”, đại biểu Đào Chí Nghĩa kiến nghị.

Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/mau-chot-trong-dau-tu-phat-trien-cac-vung-kinh-te-172784.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.