VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

Sau một năm chính thức có hiệu lực, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel (VIFTA) đang dần định hình vai trò là một cấu phần quan trọng trong mạng lưới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Với mức độ cam kết sâu, thị trường tiềm năng và cấu trúc kinh tế bổ trợ, VIFTA không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu mà còn đặt ra yêu cầu mới về cải cách thể chế, nâng cao năng lực doanh nghiệp và hoàn thiện hệ sinh thái hỗ trợ hội nhập.

Những vấn đề này đã được phân tích toàn diện tại Tọa đàm “Triển vọng từ Hiệp định VIFTA: Giải pháp tận dụng hiệu quả” do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 4/12/2025, với sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp có hoạt động xuất – nhập khẩu trực tiếp với thị trường Israel.

Các chuyên gia tham gia Tọa đàm
Các chuyên gia tham gia Tọa đàm

Cam kết mở cửa sâu – thị trường rộng cửa cho hàng Việt

Theo bà Nguyễn Thị Lan Phương, Phó Trưởng phòng WTO và Đàm phán thương mại, Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), VIFTA là một trong những FTA “trẻ” nhưng có mức độ cam kết sâu rộng, trong đó Israel dành ưu đãi thuế quan cao cho nhiều nhóm hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thủy sản, thực phẩm chế biến, hàng tiêu dùng và dệt may. Ngược lại, Việt Nam cũng mở cửa có lộ trình cho nhiều mặt hàng xuất khẩu của Israel.

Không chỉ dừng ở thuế quan, Hiệp định còn bao trùm các nội dung về quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp an toàn vệ sinh thực phẩm (SPS), rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)… Những cam kết này nếu được tận dụng hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp Việt tiếp cận thị trường Israel một cách bài bản, bền vững và có giá trị gia tăng cao hơn. Để đưa Hiệp định vào thực tiễn, Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan ban hành nhiều văn bản nội luật hóa, trong đó có Nghị định về biểu thuế ưu đãi nhập khẩu đặc biệt dành cho hàng hóa Israel và Thông tư quy định chứng nhận xuất xứ.

Bà Nguyễn Thị Lan Phương, Phó Trưởng phòng WTO và Đàm phán thương mại, Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương)
Bà Nguyễn Thị Lan Phương, Phó Trưởng phòng WTO và Đàm phán thương mại, Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương)

Song song với đó, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động thực thi Hiệp định, trong đó tập trung vào ba trọng tâm: phổ biến thông tin về Hiệp định, hoàn thiện thể chế pháp luật và hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp.

Điểm nhấn, theo bà Lan Phương, là việc khuyến khích doanh nghiệp chủ động tiếp cận thông tin, mạnh dạn phản ánh khó khăn, kiến nghị chính sách thông qua hiệp hội ngành hàng và các kênh chính thức. “Phản hồi của doanh nghiệp chính là đầu vào quan trọng để Nhà nước hoàn thiện chính sách và các chương trình hỗ trợ sát với thực tiễn hơn”, bà nhấn mạnh.

Bên cạnh những thuận lợi, các chuyên gia cuãng chỉ ra nhiều thách thức trong việc tận dụng VIFTA không đơn thuần đến từ ưu đãi thuế, mà nằm ở những “điểm nghẽn” mang tính hệ thống. Bà Đỗ Thị Thúy Hương chỉ ra 5 khó khăn phổ biến mà doanh nghiệp thường gặp khi tiếp cận các FTA, bao gồm: thiếu thông tin thị trường; khó tiếp cận vốn và tín dụng; hạn chế trong việc tuân thủ tiêu chuẩn kỹ thuật; yếu về xây dựng thương hiệu; và kết nối lỏng lẻo giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước.

Kim ngạch có thể sớm vượt 5 tỷ USD

Một trong những điểm nhấn quan trọng được thảo luận tại tọa đàm là triển vọng kim ngạch thương mại song phương. Theo ông Lê Thái Hòa, triển vọng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Israel tiếp tục rất lớn, nhất là tôm, cá ngừ, gia vị và hạt điều. Nguồn cung toàn cầu bị gián đoạn trong bối cảnh xung đột tại Trung Đông khiến các doanh nghiệp Israel tìm kiếm đối tác mới, và Việt Nam được xem là lựa chọn an toàn, ổn định.

Ông Lê Thái Hòa - Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Israel
Ông Lê Thái Hòa - Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Israel

Ông dự báo kim ngạch thương mại hai chiều sẽ sớm vượt mốc 5 tỷ USD khi lộ trình cắt giảm thuế của VIFTA đi vào giai đoạn sâu hơn. Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp Israel đã chủ động sang Việt Nam tìm kiếm cơ hội hợp tác, đồng thời xem xét chuyển dịch nhà máy, dự án sản xuất từ các thị trường khác sang Việt Nam.

Từ góc độ doanh nghiệp, ông Phan Minh Thông, Tổng Giám đốc Công ty Phúc Sinh – doanh nghiệp xuất khẩu nông sản lớn sang Israel – chia sẻ rằng Israel là thị trường tiềm năng nhưng đòi hỏi cao. Khách hàng Israel yêu cầu tiêu chuẩn khắt khe, quy trình kiểm định nghiêm ngặt và mức độ ổn định trong chất lượng sản phẩm. Theo ông Thông, ưu đãi thuế chỉ là lợi thế ban đầu. Muốn mở rộng thị phần, doanh nghiệp buộc phải đầu tư công nghệ chế biến, nâng cấp chuỗi sản xuất và chuẩn hóa quy trình theo tiêu chuẩn quốc tế. Ông nhấn mạnh vai trò của việc tham dự hội chợ, triển lãm và các chương trình kết nối giao thương tại Israel, vì đây là kênh hiệu quả nhất để tiếp xúc trực tiếp nhà nhập khẩu và nắm bắt nhu cầu thị trường.

Ông Phan Minh Thông - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phúc Sinh
Ông Phan Minh Thông - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phúc Sinh

Tọa đàm cũng chỉ ra một thực tế rằng dù có nhiều ưu đãi hấp dẫn, không phải doanh nghiệp nào cũng tận dụng được ngay. Theo các chuyên gia, cần một cách tiếp cận chủ động và bài bản hơn, tập trung vào những nhóm giải pháp như nâng cao năng lực tuân thủ tiêu chuẩn và quy định thị trường. Israel là thị trường có yêu cầu rất cao về chất lượng, kiểm soát an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật và nhãn mác. Doanh nghiệp cần chuẩn hóa hệ thống sản xuất, đầu tư công nghệ kiểm soát chất lượng và xây dựng chuỗi cung ứng minh bạch. Đồng thời cần tăng cường kết nối doanh nghiệp hai nước cũng như khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tham gia hoạt động xúc tiến thương mại tại Israel. Nếu tận dụng tốt, Hiệp định này không chỉ mở thêm một thị trường, mà còn là “bài kiểm tra năng lực” của doanh nghiệp Việt trong tiến trình hội nhập thế hệ mới. Hội nhập sâu không phải ở số lượng hiệp định đã ký, mà ở mức độ doanh nghiệp thực sự bước ra thị trường thế giới với năng lực mới.

Theo Thương vụ Việt Nam tại Israel, những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel ở mức xấp xỉ 800 triệu USD mỗi năm (năm 2024 đạt 794 triệu USD). Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, hiện có khoảng 70 diện mặt hàng của Việt Nam được xuất khẩu sang Israel, trong đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: Điện thoại và linh kiện các loại; thủy sản; giày dép các loại; hạt điều; hàng dệt may; cà phê…

Ở chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ thị trường Israel khoảng trên dưới 2,5 tỷ USD mỗi năm, gồm có: máy tính, thiết bị điện tử, phụ tùng, linh kiện bán dẫn, phân bón, máy móc, công cụ…, trong đó máy tính, các thiết bị điện tử và linh kiện chiếm tỷ trọng cao nhất.

Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/vifta-dong-luc-moi-cho-thuong-mai-va-dau-tu-viet-nam-israel-174644.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.