| Lực đẩy để Việt Nam trở thành cường quốc biển vào năm 2045 Ninh Thuận tổ chức hội thảo về khai thác tiềm năng của kinh tế biển và đô thị Biển xanh - động lực phát triển bền vững cho kinh tế Việt Nam |
![]() |
| Việt Nam sở hữu không gian biển rộng lớn, nhưng kinh tế biển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng |
Từ tiềm năng đến mô hình phát triển quy mô lớn
Phát triển kinh tế biển đang đứng trước yêu cầu chuyển dịch căn bản, từ khai thác nhỏ lẻ, phân tán sang các mô hình công nghiệp, công nghệ cao và bền vững. Trong bối cảnh đó, nhiều chuyên gia cho rằng, nếu không sớm tổ chức lại không gian biển và cách thức khai thác, Việt Nam sẽ khó hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia mạnh về biển.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho rằng, việc hình thành các cụm công nghiệp nuôi biển là giải pháp mang tính đột phá, giúp nuôi biển Việt Nam thoát khỏi tình trạng thủ công, manh mún, tiến tới sản xuất quy mô lớn và hiện đại.
Theo ông Dũng, Việt Nam sở hữu lợi thế hiếm có với đường bờ biển dài 3.260 km, hơn 3.000 hòn đảo và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km².
“Chỉ cần khai thác 0,1% diện tích biển, chúng ta đã có khoảng 1.000 km² để nuôi biển, đủ khả năng tạo ra sản lượng tới 10 triệu tấn cá mỗi năm, chưa kể các loại hải sản khác”, ông Dũng nhấn mạnh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nuôi biển Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào lồng bè nhỏ, công nghệ thấp, dễ tổn thương trước thiên tai và biến động môi trường. Việc thiếu quy hoạch không gian biển chi tiết và thiếu các khu nuôi tập trung khiến chi phí cao, năng suất thấp và khó kiểm soát môi trường.
Từ góc nhìn của một ngành kinh tế biển đi trước, ông Lê Mạnh Cường, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), lưu ý rằng Việt Nam có diện tích vùng biển và đáy biển lớn gấp khoảng ba lần diện tích đất liền.
“Nếu không khai thác hiệu quả không gian biển này, trong tương lai sẽ rất khó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”, ông Cường nói.
Ngành dầu khí là minh chứng rõ nét. Từ con số gần như bằng không, sau 50 năm thăm dò và khai thác dưới đáy biển, Việt Nam đã từng bước làm chủ nhiều khâu quan trọng nhờ chiến lược dài hạn, đầu tư bài bản và quyết tâm rất lớn. Theo ông Cường, bài học này hoàn toàn có thể vận dụng cho các ngành kinh tế biển khác, từ nuôi biển công nghiệp đến năng lượng tái tạo.
Trong bức tranh kinh tế biển tương lai, điện gió ngoài khơi được xem là một trụ cột mới. Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh đặt mục tiêu phát triển 6-17 GW điện gió ngoài khơi giai đoạn 2030-2035 và 113-139 GW vào năm 2050. Đây sẽ là ngành công nghiệp mới quy mô rất lớn, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo ông Mark Hutchinson, Chủ tịch Nhóm công tác Đông Nam Á của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC), mục tiêu này là bước tiến quan trọng, giúp củng cố niềm tin thị trường. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay là khả năng huy động vốn.
“Mỗi dự án điện gió ngoài khơi công suất khoảng 500 MW có thể cần tới 2 tỷ USD. Riêng 6 GW đầu tiên, tổng vốn đầu tư ước khoảng 24 tỷ USD”, ông Hutchinson phân tích.
Đột phá kinh tế biển
Sau khi Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam được ban hành năm 2018, nhận thức về vai trò của kinh tế biển đã thay đổi rõ rệt. Ông Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Chính sách và Chiến lược Trung ương, cho biết sáu lĩnh vực kinh tế biển chủ đạo đã thu hút nguồn lực lớn, nhiều đô thị ven biển được đầu tư hiện đại, đời sống người dân từng bước cải thiện.
Tuy nhiên, ông Hưng thẳng thắn nhìn nhận, nhiều mục tiêu vẫn còn khoảng cách xa so với kỳ vọng. Hệ sinh thái biển tại nhiều khu vực suy thoái, nguồn lợi thủy sản giảm, khoa học công nghệ và chuyển đổi số chưa trở thành động lực cốt lõi. Đặc biệt, điện gió ngoài khơi và bảo tồn biển mới dừng ở mức cơ hội, chưa tạo được kết quả cụ thể.
Từ thực tiễn địa phương, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Bùi Văn Khắng cho rằng tăng trưởng kinh tế biển của tỉnh vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Logistics, cảng biển, nuôi trồng thủy sản quy mô còn nhỏ; khoa học công nghệ biển chưa phát huy vai trò động lực; ô nhiễm môi trường và quản lý tài nguyên biển còn nhiều bất cập.
Đánh giá cao việc Việt Nam phê duyệt Khung Quy hoạch Không gian Biển quốc gia năm 2024, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam Hilde Solbakken nhấn mạnh vai trò triển khai ở cấp địa phương. Theo bà, 21 tỉnh, thành ven biển cần sớm thực hiện phân vùng biển chi tiết, có cơ chế liên ngành mạnh để giải quyết xung đột không gian biển và bảo đảm lợi ích kinh tế công bằng.
"Na Uy cam kết tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong phát triển biển bền vững, từ quy hoạch không gian biển, đổi mới nuôi trồng thủy sản, năng lượng tái tạo đến quản lý chất thải, kinh tế tuần hoàn và thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR)", bà Hilde Solbakken chia sẻ.
Ở góc độ khoa học, GS.TS. Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, điểm khởi đầu của phát triển kinh tế biển bền vững phải là điều tra cơ bản và chứng minh rõ tiềm năng. Khi dữ liệu nền đủ tin cậy, doanh nghiệp sẽ tự tìm đến, ngân hàng sẵn sàng đầu tư và Nhà nước có cơ sở để hoạch định chính sách.
Theo ông Nhuận, dữ liệu kinh tế biển gồm hai tầng: tầng điều tra cơ bản do Nhà nước đầu tư và tầng thăm dò, khai thác do doanh nghiệp thực hiện. Tuy nhiên, để làm chủ kinh tế biển, Việt Nam cần làm chủ công nghệ lõi.
“Không thể học hỏi quốc tế mãi. Đến lúc phải tự phát triển công nghệ để thích ứng với biến động toàn cầu”, ông Nhuận nhấn mạnh.
Kinh tế biển cũng không thể tách rời yêu cầu bảo vệ môi trường. Từ điều tra, thăm dò đến khai thác và sản xuất đều phải vận hành theo tư duy kinh tế xanh, tuần hoàn và carbon thấp. Nhà nước và doanh nghiệp cần phối hợp xây dựng nền tảng dữ liệu biển quốc gia, tiến tới hình thành “bản sao số” của không gian biển Việt Nam.
Để tạo đột phá, GS.TS. Mai Trọng Nhuận đề xuất áp dụng cơ chế thử nghiệm chính sách cho kinh tế biển, với ít nhất 5 cơ chế tương ứng các nguyên tắc xanh, tuần hoàn, carbon thấp và giới hạn sinh thái. Đây sẽ là bước đi cần thiết để biến tiềm năng thành động lực tăng trưởng thực chất.
Khi thể chế được tháo gỡ, công nghệ được làm chủ và dữ liệu được chuẩn hóa, kinh tế biển Việt Nam mới có thể bước sang giai đoạn phát triển mới, bền vững hơn, giá trị cao hơn và đủ sức cạnh tranh trong không gian biển toàn cầu.
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/muon-giau-tu-bien-can-dot-pha-ve-the-che-va-cong-nghe-175138.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.