| Xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản: Giữ vững thị trường khó tính bằng chất lượng và uy tín |
Chọn rừng làm bạn, kiếm kế sinh nhai
Sinh ra và lớn lên ở vùng đồi núi tỉnh Lạng Sơn, ông Đặng Văn Ấm là một trong những hộ cận nghèo của thôn Tân Minh, xã Chiến Thắng bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về việc chọn một hướng đi bền vững hơn khi được chính quyền địa phương vận động, khuyến khích phát triển kinh tế rừng. Từ 50 triệu đồng vay vốn ngân hàng để mua giống trồng bạch đàn, nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, tuân thủ chu kỳ sinh trưởng, đến nay đã mang lại nguồn thu đáng kể. Với 20 ha rừng, có những thời điểm gia đình ông bán gỗ thu về khoảng 300 triệu đồng. Dù nguồn thu này không đều hàng năm, nhưng đủ để gia đình ông Ấm trang trải cuộc sống, tái đầu tư sản xuất và từng bước tích lũy kinh tế, ra khỏi danh sách hộ cận nghèo năm 2022.
Từ quy mô nhỏ ở các hộ, phong trào trồng và phát triển kinh tế từ rừng đã lan rộng ra nhiều địa phương trên cả nước. Theo ông Lý Văn Ba, Trưởng thôn Mỹ Vy, xã Thượng Minh, tỉnh Thái Nguyên, trước đây bà con không mấy người tin vào giá trị kinh tế của rừng. Nhưng từ khi có nguồn giống được Nhà nước hỗ trợ trong dự án PAM 5322; dự án 5 triệu ha rừng (dự án 661); các lớp tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc rừng, hướng dẫn chọn giống… được chính quyền triển khai liên tục, số lượng hộ tham gia phát triển kinh tế rừng tăng nhanh. Hiện thôn Mỹ Vy có trên 300ha đất lâm nghiệp, trong đó phần lớn đã được phủ xanh bằng keo, mỡ, quế..., là những loài cây phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng. Mỗi chu kỳ khai thác đem lại hàng chục đến hàng trăm triệu đồng, hình thành nguồn lực kinh tế ổn định hơn so với sản xuất nông nghiệp truyền thống. Hiệu quả của kinh tế rừng thể hiện rất rõ với 98% số nhà trong thôn đã được kiên cố hóa hoặc bán kiên cố; 100% hộ có xe máy, tủ lạnh và các thiết bị sinh hoạt hiện đại. Đường vào thôn được cứng hóa, giao thương thuận tiện.
Đặc biệt, nhiều người dân đã nhận thấy tiềm năng sẵn có và cơ hội từ thị trường các-bon. Ông Hoàng Văn Sáng, thôn Đá Chồng, xã Yên Bình, tỉnh Lào Cai cho biết, khoảng 10 năm trước, ông được cán bộ kiểm lâm và doanh nghiệp tuyên truyền, hướng dẫn trồng rừng theo tiêu chuẩn FSC. Dù chưa biết nhiều về lợi nhuận kinh tế, nhưng ông nhận thấy trước mắt được góp phần bảo vệ môi trường, chống xói mòn, sạt lở đất đai nên tham gia. Đến nay, gia đình ông đã có trên 11 ha rừng được cấp chứng chỉ phát triển rừng bền vững. Đồng thời để phát triển kinh tế bền vững từ rừng, gia đình ông trồng gối vụ quế, bồ đề, keo trên các mảnh rừng khác nhau, vì thế, năm nào, gia đình ông Sáng cũng có rừng để khai thác trắng hoặc tỉa thưa. Trung bình mỗi năm, gia đình ông Sáng thu về khoảng 100 triệu đồng.
Mới đây, trong dự thảo báo cáo được nêu trong phiên họp của Thường trực Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho biết, giai đoạn 2019-2023, diện tích rừng có chủ quản lý ngày càng được mở rộng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững, giao rừng đã tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của người dân. Khi rừng “có chủ”, người dân yên tâm đầu tư, gắn bó với rừng, trách nhiệm bảo vệ rừng được nâng cao, tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng giảm đáng kể.
![]() |
| Rừng trở thành nguồn sinh kế chính của người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn |
Tháo gỡ “điểm nghẽn”, mở đường cho sinh kế bền vững
Tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách cũng bộc lộ không ít khó khăn, bất cập. Một số quy định pháp lý đã không còn phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ trồng rừng theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP với quy định “chỉ hỗ trợ một lần cho chu kỳ đầu” không còn đáp ứng yêu cầu thực tế, khi nhiều diện tích rừng đã được người dân trồng qua nhiều chu kỳ cần hỗ trợ để cải tạo, chuyển đổi cây trồng. Điều này khiến nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp khó tiếp cận chính sách hỗ trợ, như tại Tuyên Quang, Lào Cai.
Bên cạnh đó, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Quàng Văn Hương cũng cho biết, công tác giao đất, giao rừng và kết quả thực hiện ở nhiều địa phương còn vướng mắc, chưa đạt yêu cầu. Giao đất, giao rừng còn chậm, thiếu đồng bộ, nhiều diện tích đã giao đất nhưng chưa giao rừng; ranh giới không rõ ràng, có sự sai lệch, chồng lấn, tranh chấp cả trên thực địa và hồ sơ, bản đồ. Nhiều địa phương thực hiện chưa tốt, tiến độ chậm, vướng mắc thủ tục; giao đất, giao rừng trước đây chỉ tập trung cấp “sổ đỏ”, thiếu gắn với chính sách hỗ trợ; thủ tục bàn giao chậm, có biến động diện tích trước khi giao; kết quả giao, khoán rừng cho cộng đồng, hộ dân tộc thiểu số còn thấp.
Do đó, các chuyên gia đề xuất, cần phát triển sinh kế dưới tán rừng; tăng mức hỗ trợ bảo vệ, khoán bảo vệ rừng, hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn, chuyển hóa rừng trồng, trồng rừng sản xuất chất lượng cao. Đồng thời, cần đa dạng hoá nguồn lực tài chính cho phát triển lâm nghiệp như: lồng ghép hiệu quả các nguồn ngân sách trung ương, địa phương, nguồn dịch vụ môi trường rừng, Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi, Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững. Khuyến khích các mô hình hợp tác công - tư; thu hút doanh nghiệp đầu tư trồng rừng gỗ lớn, dược liệu dưới tán rừng.
Bên cạnh đó, ngành lâm nghiệp đang phấn đấu giai đoạn 2026-2030 phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng, nâng cao giá trị gia tăng của ngành lâm nghiệp; nâng cao giá trị của sản phẩm gỗ và lâm sản. Để làm được điều này, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cho rằng, các đơn vị chủ rừng cần nỗ lực tham gia các dự án quản lý rừng bền vững và đạt chứng chỉ rừng bền vững; áp dụng kỹ thuật nuôi dưỡng, chuyển hóa rừng trồng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn, nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng; đồng thời, cần xây dựng phương án quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC, VFCS, giúp sản phẩm từ rừng có giá trị kinh tế cao khi tiêu thụ trên thị trường, góp phần nâng cao chất lượng trồng, quản lý rừng bền vững và chế biến gỗ.
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo ngành lâm nghiệp đẩy mạnh phát triển vùng rừng trồng sản xuất gỗ lớn tập trung, nhằm chủ động cung cấp nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Để đạt mục tiêu này, ngành sẽ rà soát quỹ đất và rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ hiện có để trồng mới, trồng lại rừng sản xuất gỗ lớn; tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết giữa các tổ chức, cá nhân trồng rừng với doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ gắn với quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, huy động vốn xã hội hóa từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư trồng rừng thâm canh.
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/kich-hoat-gia-tri-cua-rung-vang-175206.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.