![]() |
| Quang cảnh hội thảo - Ảnh: H.T |
Nhằm cung cấp cơ sở dữ liệu thống kê tin cậy và bằng chứng khoa học phục vụ công tác hoạch định, theo dõi và đánh giá chính sách phát triển kinh tế - xã hội, ngày 23/12 vừa qua, Cục Thống kê (Bộ Tài chính) đã chủ trì, phối hợp với Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tổ chức Hội thảo công bố các kết quả nghiên cứu chuyên sâu được xây dựng từ kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ và Điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số.
Hội thảo tập trung công bố ba báo cáo nghiên cứu chuyên sâu, phản ánh các khía cạnh then chốt về điều kiện sống, di cư nội địa và xu hướng nhân khẩu học của Việt Nam trong trung và dài hạn. Các kết quả nghiên cứu không chỉ làm rõ thực trạng, xu hướng và những khác biệt đáng chú ý giữa các nhóm dân cư, vùng địa lý, mà còn cung cấp căn cứ khoa học quan trọng cho việc điều chỉnh và hoàn thiện chính sách phát triển theo hướng bao trùm, bền vững và thích ứng với bối cảnh mới.
Những khác biệt về nghèo đa chiều trong cộng đồng các dân tộc
Trong đó, báo cáo “Những khác biệt về đặc trưng kinh tế - xã hội và nghèo đa chiều trẻ em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” cung cấp bức tranh phân tích toàn diện về điều kiện sống và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trong cộng đồng các dân tộc, đặc biệt là tình trạng nghèo đa chiều của trẻ em dân tộc thiểu số.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm dân tộc và giữa các vùng địa lý. Trong khi tỷ lệ không biết chữ ở các dân tộc thiểu số nói chung là 15,1%, thì con số này ở nhóm các dân tộc rất ít người (dưới 10.000 người) lên tới 32,8%, cao gấp hơn hai lần so với các nhóm dân tộc có quy mô dân số lớn hơn (13,3%).
![]() |
| Tỷ lệ dân số (từ 15 tuổi trở lên) không biết chữ theo nhóm dân tộc, giới tính và khu vực kinh tế - xã hội (%) |
Phân tích cho thấy sự khác biệt chủ yếu xuất phát từ những khó khăn mà đồng bào dân tộc thiểu số đang phải đối mặt, như cơ sở hạ tầng còn hạn chế, điều kiện vệ sinh chưa bảo đảm, trình độ học vấn thấp và tình trạng kết hôn sớm. Các yếu tố bất lợi này không chỉ tồn tại riêng lẻ mà còn chồng lấp, làm gia tăng tình trạng bất lợi đa chiều.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu nhấn mạnh vai trò then chốt của giáo dục, đặc biệt là giáo dục trung học đối với trẻ em gái, trong việc giảm nghèo liên thế hệ, giảm tình trạng kết hôn khi chưa đủ 18 tuổi, qua đó khẳng định sự cần thiết của các chính sách can thiệp tổng hợp, linh hoạt và có tính đến đặc thù của từng dân tộc.
Di cư nội địa: Xu hướng giảm về quy mô, thay đổi về cơ cấu
Báo cáo thứ hai, “Di cư nội địa Việt Nam giai đoạn 2009-2024”, tổng hợp và phân tích xu hướng, quy mô, cơ cấu và động lực của di cư nội địa trong vòng 15 năm qua, qua đó làm rõ mối liên hệ giữa di cư với thị trường lao động, quá trình đô thị hóa và phân bố dân cư.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quy mô di cư nội địa của Việt Nam có xu hướng giảm trong giai đoạn gần đây. Nếu như giai đoạn 2014-2019, số người di cư nội địa ước khoảng 6,4 triệu người, thì đến giai đoạn 2019-2024, con số này giảm xuống còn khoảng 3,8 triệu người.
![]() |
| Di cư theo nhóm dân tộc và giới |
Về cơ cấu, di cư thành thị - thành thị chiếm tỷ trọng lớn nhất, trên 70%, cho thấy phần lớn người di cư từ khu vực thành thị có xu hướng chuyển đến các đô thị khác để sinh sống và làm việc. Đồng thời, xu hướng di chuyển ở khoảng cách ngắn ngày càng rõ nét, phản ánh nhu cầu ổn định nơi cư trú, giảm chi phí di chuyển và duy trì các mối liên kết xã hội của người di cư.
Đáng chú ý, mặc dù quy mô di cư nội địa giảm mạnh, số người di cư là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ giảm nhẹ, dẫn tới tỷ trọng nhóm này trong tổng số người di cư tăng lên. Diễn biến này cho thấy các chính sách phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực nông thôn, ven đô và các thành phố vệ tinh bước đầu phát huy hiệu quả trong việc tạo việc làm và cải thiện sinh kế cho người dân tại chỗ. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện chính sách theo hướng linh hoạt và bao trùm hơn, đặc biệt là mở rộng cơ hội việc làm, cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội tại địa phương và bảo đảm đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ cơ bản trong quá trình di cư và ổn định cuộc sống.
Cơ cấu dân số vàng sắp khép lại, già hóa gia tăng nhanh
Báo cáo thứ ba, “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024-2074”, cung cấp bức tranh toàn diện về xu hướng biến đổi quy mô, cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính, cũng như sự phân bố dân cư của Việt Nam trong nửa thế kỷ tới. Các kết quả dự báo phản ánh rõ quá trình chuyển đổi nhân khẩu học đang diễn ra, với nhiều điểm tương đồng với xu thế chung của thế giới.
Theo kịch bản trung bình, dân số Việt Nam tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059, trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm hoặc ổn định. Trong giai đoạn 2024-2074, theo ba kịch bản mức sinh thấp (1,45 con/phụ nữ), trung bình (1,85 con/phụ nữ) và cao (2,01 con/phụ nữ), dân số Việt Nam sẽ tăng tương ứng 2,5%, 12,7% và 17,0%, đạt lần lượt 103,9 triệu, 114,2 triệu và 118,5 triệu người.
![]() |
| Dự báo thời kỳ cơ cấu dân số vàng, phương án trung bình |
Một trong những điểm đáng chú ý mà nghiên cứu này chỉ ra là dự báo thời kỳ cơ cấu dân số vàng của Việt Nam sẽ khép lại vào năm 2036, nhường chỗ cho thời kỳ dân số già và siêu già. Quá trình này thể hiện qua sự thu hẹp của các nhóm tuổi trẻ và trung niên, trong khi nhóm dân số cao tuổi gia tăng nhanh chóng. Bên cạnh đó, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh kéo dài đến giữa thế kỷ XXI tiếp tục tác động đến cơ cấu giới tính của dân số, trong khi quá trình đô thị hóa vẫn diễn ra nhưng có xu hướng chậm lại khi tỷ lệ dân số thành thị tiệm cận ngưỡng 50%.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, di cư nội địa tiếp tục là nhân tố quan trọng làm thay đổi phân bố dân cư giữa các vùng, phản ánh sự khác biệt về điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và khả năng thu hút, sử dụng lao động của từng địa phương.
Trên cơ sở các xu hướng nhân khẩu học và các kịch bản dự báo, báo cáo đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm giúp Việt Nam chủ động thích ứng với bối cảnh dân số mới, tập trung vào việc tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số và chủ động ứng phó với các hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây là những yếu tố then chốt góp phần bảo đảm phát triển bền vững nguồn nhân lực và củng cố nền tảng dân số cho tương lai.
Nhìn chung, các nghiên cứu được công bố tại hội thảo khẳng định vai trò của dữ liệu thống kê và bằng chứng khoa học trong xây dựng và điều chỉnh chính sách dân số, lao động, an sinh xã hội và phát triển bền vững. Hội thảo là diễn đàn để các cơ quan quản lý, chuyên gia và đối tác phát triển trao đổi, thảo luận về các phát hiện chính, làm rõ hàm ý chính sách và thúc đẩy việc khai thác, sử dụng hiệu quả kết quả điều tra thống kê trong quản trị quốc gia, góp phần hướng tới phát triển bao trùm và bền vững trong giai đoạn tới.Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/viet-nam-se-ket-thuc-thoi-ky-co-cau-dan-so-vang-som-hon-3-nam-175628.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.