| TP. Hồ Chí Minh: Tăng trưởng tín dụng ước tăng 13,5% so với cuối năm 2024 Cho vay ưu đãi nông, lâm, thủy sản về đích |
Tiếp tục là kênh cung ứng vốn chủ lực
Chính từ thực tế đó, bài toán đặt ra cho giai đoạn tới không chỉ là duy trì tăng trưởng tín dụng, mà còn là bảo đảm đủ nguồn lực tài chính để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển dài hạn. Việc duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn 2026 - 2030 được xác định là nền tảng then chốt, tạo tiền đề để Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tiến tới trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Theo ước tính của các chuyên gia trong và ngoài nước, để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần một lượng vốn rất lớn, khoảng 1.400 tỷ USD trong 5 năm tới, tương đương 280 tỷ USD mỗi năm. Trong khi đó, nguồn lực đầu tư hiện vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, với quy mô tín dụng tương đương khoảng 134% GDP.
Theo bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế tiếp tục ở mức cao trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng, trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế. Theo bà Giang, nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia rất lớn, tạo áp lực không nhỏ đối với các tổ chức tín dụng trong việc cân đối nguồn vốn và quản trị rủi ro kỳ hạn, nhất là khi nguồn vốn cho vay chủ yếu vẫn là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, hiện chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của hệ thống.
Phân tích bức tranh tổng thể, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đang dựa quá lớn vào hệ thống ngân hàng khi kênh này chiếm tới hơn 50% tổng cung vốn. Đến cuối năm 2025, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ước đạt 147%. Nếu tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng 16-17%, đến năm 2030, tỷ lệ này sẽ lên tới 180-185% GDP - thuộc nhóm cao nhất thế giới. Thống kê cho thấy, tại Mỹ, tỷ lệ tín dụng/GDP là 198% nhưng đó là bao gồm các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nếu chỉ tính riêng khối ngân hàng thương mại, tỷ lệ này của họ chỉ khoảng 80% GDP, rủi ro đòn bẩy tài chính tại Việt Nam đang dồn quá lớn lên vai hệ thống ngân hàng.
Ở góc độ vĩ mô, theo TS. Cấn Văn Lực, chất lượng tăng trưởng phụ thuộc lớn vào cơ cấu tín dụng và cơ cấu đầu tư. Hiện khoảng 80% vốn đầu tư công dành cho hạ tầng giao thông; trong khi y tế, giáo dục chiếm 15%, còn khoa học - công nghệ chỉ khoảng 0,5%. “Nâng cao hiệu quả đầu tư và điều chỉnh cơ cấu vốn hợp lý quan trọng hơn việc chỉ mở rộng quy mô tín dụng”, ông nhấn mạnh.
![]() |
| Hiện tín dụng ngân hàng vẫn là kênh vốn chủ đạo cho nền kinh tế |
Đa dạng hóa nguồn vốn - con đường tất yếu
Từ thực tiễn đó, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần sớm đổi mới tư duy huy động và phân bổ nguồn lực, chuyển từ mô hình phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng sang mô hình phát triển cân bằng hơn, dựa nhiều hơn vào thị trường vốn và các nguồn tài chính trung, dài hạn, nhằm bảo đảm tăng trưởng nhanh nhưng bền vững trong giai đoạn tới.
Để giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng, cần đẩy nhanh cải cách thể chế tài chính, phát triển thị trường tài chính theo hướng cân bằng hơn; Thúc đẩy thị trường vốn, thị trường trái phiếu, đa dạng hóa các định chế tài chính như quỹ đầu tư, quỹ hưu trí. Đồng thời hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình mới như tài chính xanh, tài chính số, thị trường carbon, trung tâm tài chính quốc tế. Định hướng đầu tư cũng cần được điều chỉnh theo hướng ưu tiên các lĩnh vực có lợi thế so sánh cao, ít gây áp lực lạm phát và phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Theo TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nên ưu tiên phát triển các ngành như năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và điện mặt trời; các ngành phục vụ chuyển đổi số, thương mại điện tử trong nước và xuyên biên giới… Trong bối cảnh đó, tín dụng xanh được nhìn nhận là một trong những kênh dẫn vốn quan trọng cần được phát triển song hành với thị trường vốn nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Các chuyên gia đề xuất sớm ban hành đầy đủ các quy định liên quan đến chuẩn mực cấp tín dụng, đánh giá và quản trị rủi ro môi trường - xã hội trong hoạt động ngân hàng; đồng thời xây dựng các cơ chế ưu đãi tín dụng gắn với mục tiêu chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng bền vững.
Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, cần sớm xây dựng cơ chế đánh giá và xếp hạng ưu tiên đối với các tổ chức tín dụng tham gia tài chính xanh, qua đó tạo động lực cho các ngân hàng và nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn quốc tế. Đồng thời, cần dành một nguồn tái cấp vốn ổn định, dài hạn cho tín dụng xanh, phù hợp với đặc thù của các dự án đầu tư xanh có vòng đời dài và thời gian thu hồi vốn chậm.
Ông Hùng cũng kiến nghị thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh theo mô hình hợp tác công - tư, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, đồng thời rút kinh nghiệm từ những hạn chế của các quỹ bảo lãnh hiện nay. Việc sớm vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon được xem là công cụ quan trọng để thúc đẩy ngân hàng phát triển các sản phẩm tài chính mới, gắn với thị trường carbon.
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/da-dang-hoa-nguon-von-giam-dan-phu-thuoc-tin-dung-175730.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.