Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 22 - 26/12

Tỷ giá trung tâm giảm 20 đồng trong tuần, NHNN bơm ròng 6.129,25 tỷ đồng ra thị trường qua kênh thị trường mở hay VN-Index tăng 25,49 điểm (+1,50%) so với phiên cuối tuần trước đó... là một số thông tin kinh tế đáng chú ý trong tuần từ 22 - 26/12.

Tổng quan

Tính chung cả năm 2025, giá dầu Brent và WTI giảm lần lượt khoảng 17% và 20% so với cuối năm 2024. Đây là mức suy giảm mạnh nhất kể từ năm 2020, giai đoạn nhu cầu năng lượng toàn cầu lao dốc do đại dịch COVID-19.

Đặc biệt, từ đầu tháng 10/2025 đến nay, thị trường dầu thô thế giới giữ xu hướng giảm giá liên tục. Trong giai đoạn này, giá dầu WTI đã lùi từ vùng trên 60 USD/thùng xuống quanh 55 USD/thùng, trong khi dầu Brent giảm từ gần 70 USD/thùng về quanh 58 USD/thùng. Trong các tháng 10 và 11/2025, dù xu hướng giảm đã hình thành, nhưng giá dầu chủ yếu vẫn dao động trong biên hẹp, với các nhịp tăng - giảm đan xen. Bước sang tháng 12, xu hướng giảm trở nên rõ ràng hơn khi các yếu tố cung - cầu bắt đầu chi phối mạnh hơn tới diễn biến giá.

Giới phân tích nhận định, giá dầu mỏ năm 2025 chịu sự giằng co giữa các yếu tố cơ bản bất lợi kéo dài, đặc biệt là tình trạng dư cung, với những thông tin hỗ trợ mang tính ngắn hạn xuất phát từ căng thẳng địa chính trị từ Venezuela, Nga – Ukraine, Trung Đông…

Sang năm 2026, nhiều chuyên gia nhận định, thị trường xăng dầu thế giới được dự báo tiếp tục vận động trong trạng thái "giằng co" ở vùng giá thấp với kỳ vọng dầu Brent dao động quanh 52 - 58 USD/thùng; dầu WTI dao động quanh 50 - 55 USD/thùng.

Nguyên nhân chính đến từ triển vọng dư cung trên thị trường dầu thô toàn cầu. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và đồng minh, bao gồm Nga (OPEC+), tiếp tục duy trì chính sách gia tăng sản lượng, trong khi sản lượng dầu của Mỹ vẫn ở vùng cao kỷ lục và tồn kho dầu tại Mỹ có xu hướng tăng trở lại. Các báo cáo gần đây từ IEA, OPEC và Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) đều cho thấy triển vọng năm 2026 nghiêng về kịch bản thị trường thặng dư, qua đó tạo áp lực đáng kể lên mặt bằng giá dầu. Đồng thời, lượng dầu bổ sung từ các quốc gia ngoài khối vẫn ở mức cao. Theo IEA, các nước như Brazil, Kazakhstan, Canada dự kiến mỗi nước tiếp tục tăng khoảng 120.000 thùng/ngày. Trong bối cảnh nguồn cung dồi dào, các yếu tố địa chính trị vẫn hiện hữu, nhưng tác động lên giá dầu không còn mạnh như trước. Thậm chí, một số quốc gia xuất khẩu lớn phải bán dầu với mức chiết khấu sâu để duy trì đầu ra, đặc biệt tại thị trường châu Á, cũng khiến giá dầu chịu thêm sức ép giảm.

Về phía cầu, tiêu thụ dầu năm 2026, đặc biệt trong quý I/2026 và nửa đầu năm nhiều khả năng tăng chậm. Dù Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed đã phát đi tín hiệu rõ ràng hơn về xu hướng nới lỏng tiền tệ, nhưng các chỉ báo kinh tế gần đây cho thấy, đà phục hồi của nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thực sự bền vững. Điều này khiến triển vọng tiêu thụ năng lượng của Mỹ - quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới - tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong ngắn hạn. Với Trung Quốc, việc tăng cường tích trữ dầu và đẩy mạnh khai thác trong nước thời gian qua cũng khiến nhu cầu nhập khẩu ngắn hạn có xu hướng chững lại. Vì vậy, giới phân tích dự báo tổng tiêu thụ nhiên liệu năm 2026 chỉ tăng khoảng 1,0%, thấp hơn một chút so với mức 1,1% của năm 2025. Triển vọng nhu cầu dầu toàn cầu năm 2026 tiếp tục phản ánh xu hướng tăng trưởng chững lại trong giai đoạn hậu Covid-19, với phần lớn mức tăng đến từ Trung Quốc và các thị trường mới nổi. Tại Mỹ, mức tăng trưởng dự kiến sẽ yếu hơn trong năm 2026, còn các thị trường phát triển khác được dự báo tiếp tục giảm tiêu thụ nhiên liệu.

Tại Việt Nam, từ đầu năm đến tháng 12/2025, giá xăng dầu được điều chỉnh theo xu hướng thế giới với tần suất điều chỉnh dày (hơn 50 phiên), đan xen giữa các lần tăng và giảm, trong đó nổi bật là các đợt điều chỉnh giảm liên tiếp vào cuối năm. Tuy nhiên, so với cuối năm 2024, giá xăng và dầu trong nước đến thời điểm 25/12 chỉ giảm không đáng kể, với mức giảm khoảng 1.000 - 1.500 đồng/lít.

Tóm lược thị trường trong nước tuần từ 22 - 26/12

Thị trường ngoại tệ tuần từ 22 - 26/12, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh theo xu hướng giảm. Chốt ngày 26/12, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 25.128 VND/USD, giảm 20 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.922 VND/USD, cao hơn 50 đồng so với tỷ giá sàn; tỷ giá bán giao ngay được niêm yết mức ở mức 26.334 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với tỷ giá trần.

Tỷ giá liên ngân hàng trong tuần từ 22 - 26/12 giảm ở hầu hết các phiên. Kết thúc phiên 26/12, tỷ giá liẻn ngân hàng đóng cửa tại 26.292 VND/USD, giảm 28 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.

Tỷ giá trên thị trường tự do tuần qua biến động mạnh trái chiều qua các phiên. Chốt phiên 26/12, tỷ giá tự do giảm 150 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 26.750 VND/USD và 26.850 VND/USD.

Thị trường tiền tệ liên ngân hàng tuần từ 22 - 26/12, lãi suất VND liên ngân hàng tăng - giảm mạnh qua các phiên. Kết thúc ngày 26/12, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch ở mức: qua đêm 4,30% (-1,40 điểm phần trăm); 1 tuần 8,55% (+2,40 điểm phần trăm); 2 tuần 8,73% (+1,23 điểm phần trăm); 1 tháng 7,60% (+0,20 điểm phần trăm).

Lãi suất USD liên ngân hàng tăng - giảm đan xen qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 26/12, lãi suất USD liên ngân hàng giao dịch tại: qua đêm 3,69% (+0,01 điểm phần trăm); 1 tuần 3,76% (+0,02 điểm phần trăm); 2 tuần 3,81% (+0,04 điểm phần trăm) và 1 tháng 3,85% (+0,01 điểm phần trăm).

Trên thị trường mở tuần từ 22 - 26/12, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu 95.000 tỷ đồng với các kỳ hạn 7 ngày, 14 ngày, 28 ngày và 91 ngày, lãi suất duy trì ở mức 4,5%. Có 65.104,78 tỷ đồng trúng thầu. Có 58.975,53 tỷ đồng đáo hạn trên kênh cầm cố.

NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN trong tuần qua.

Như vậy, tuần qua, NHNN bơm ròng 6.129,25 tỷ đồng ra thị trường qua kênh thị trường mở. Có 381.451,32 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố.

Trên thị trường trái phiếu, phiên 24/12, Kho bạc Nhà nước đấu thầu thành công 13.240 tỷ đồng/17.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu, tương đương tỷ lệ trúng thầu đạt 78%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được 1.300 tỷ đồng/1.500 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 10 năm huy động được 11.920 tỷ đồng/14.000 tỷ đồng gọi thầu và kỳ hạn 30 năm huy động được 20 tỷ đồng/500 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 15 năm gọi thầu 1.000 tỷ đồng, tuy nhiên, không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu ở kỳ hạn 5 năm là 3,20% (+0,02 điểm phần trăm), kỳ hạn 10 năm là 4,0% (+0,04 điểm phần trăm), kỳ hạn 30 năm là 4,10% (+0,21 điểm phần trăm).

Ngày 30/12, Kho bạc Nhà nước dự kiến chào thầu 17.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 1.500 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm chào thầu 14.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng và kỳ hạn 30 năm chào thầu 500 tỷ đồng.

Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 11.243 tỷ đồng/phiên, giảm so với mức 13.042 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua tăng ở các kỳ hạn từ 5 năm trở lên trong khi giảm nhẹ ở các kỳ hạn còn lại. Chốt phiên 26/12, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh: 1 năm 2,91% (-0,004 điểm phần trăm so với phiên cuối tuần trước đó); 2 năm 2,97% (-0,004 điểm phần trăm); 3 năm 3,02% (-0,004 điểm phần trăm); 5 năm 3,24% (+0,01 điểm phần trăm); 7 năm 3,50% (+0,003 điểm phần trăm); 10 năm 4,03% (+0,02 điểm phần trăm); 15 năm 4,10% (+0,02 điểm phần trăm); 30 năm 4,15% (+0,01 điểm phần trăm).

Thị trường chứng khoán tuần từ 22 - 26/12 ghi nhận chỉ số chính tăng 3 phiên đầu tuần rồi giảm trở lại. Kết thúc phiên 26/12, VN-Index đứng ở mức 1.729,80 điểm, tăng 25,49 điểm (+1,50%) so với phiên cuối tuần trước đó; HNX-Index giảm 3,44 điểm (-1,35%) về mức 250,53 điểm; UPCoM-Index mất 0,13 điểm (-0,11%) còn 119,28 điểm.

Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng trên 23.800 tỷ đồng/phiên, tăng tích cực từ mức 18.400 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại bán ròng gần 970 tỷ đồng trên cả 3 sàn.

Tin quốc tế

Nước Mỹ ghi nhận một số thông tin kinh tế quan trọng. Ngày 23/12, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) công bố Trung Quốc đã có hành vi thương mại không công bằng trong lĩnh vực bán dẫn, theo kết quả của cuộc điều tra kể từ những tuần cuối của nhiệm kỳ Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, USTR quyết định chưa áp đặt thêm các mức thuế quan đối với chip nhập khẩu từ Trung Quốc ít nhất cho tới giữa năm 2027 trong bối cảnh hai nước đang đình chiến thương mại. Theo đó, mức thuế đối với chip Trung Quốc sẽ được giữ ở 0% trong vòng 18 tháng, trước khi có được điều chỉnh từ ngày 23/6/2027.

Tiếp theo, Văn phòng Phân tích Kinh tế Mỹ công bố GDP nước này tăng 4,3% q/q trong quý 3 theo báo cáo sơ bộ lần 2, cao hơn khá nhiều so với báo cáo ban đầu ở mức 3,8%, và trái với dự báo được hạ xuống khoảng 3,3%. Động lực chính của đà tăng trưởng trên chủ yếu đến từ chi tiêu tiêu dùng với mức tăng 3,5% trong quý 3, cải thiện nhiều so với chỉ 2,5% ghi nhận ở quý 2. Bên cạnh đó, chi tiêu Chính phủ gia tăng, đầu tư của lĩnh vực tư nhân giảm ít hơn dự báo cũng góp phần vào kết quả lạc quan chung.

Mặc dù vậy, một điểm không mấy thuận lợi cho thị trường Mỹ là chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (PCE) toàn phần và PCE lõi lần lượt tăng 2,8% và 2,9% so với cùng kỳ trong quý 3, đều mở rộng so với mức 2,1% và 2,6% ở quý trước đó.

Về thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 19/12 ở mức 214 nghìn đơn, trái với dự báo tiếp tục đi ngang ở mức 224 nghìn đơn. Số đơn bình quân trong 4 tuần gần nhất là 217,75 nghìn, giảm nhẹ 0,75 nghìn so với 4 tuần liền trước.

Cuối cùng, Hãng Conference Board khảo sát cho biết chỉ số niềm tin tiêu dùng tại nước Mỹ ở mức 89,1 điểm trong tháng 12, giảm nhẹ từ 92,9 điểm của tháng 11 và đồng thời thấp hơn mức 91,7 điểm theo dự báo.

Kinh tế Nhật Bản cũng đón các thông tin quan trọng. Ngày 25/12, Chính phủ Nhật Bản dự báo kinh tế nước này sẽ tăng trưởng 1,1% trong năm tài chính 2025 (kết thúc vào ngày 31/3/2026), cao hơn khá nhiều so với dự báo tăng 0,7% đưa ra hồi tháng 8 năm nay. Bên cạnh đó, Nhật Bản kỳ vọng GDP sẽ tiếp tục mở rộng đà tăng lên 1,3% trong năm 2026 khi tiêu dùng và đầu tư duy trì vững chắc.

Theo Chính phủ Nhật Bản dự tính, tiêu dùng cá nhân có thể tăng 1,3% trong năm sau (bằng mức tăng dự báo của năm 2025), ngoài ra đầu tư sản xuất dự báo tăng 2,8% (mở rộng so với mức tăng 1,9% năm nay).

Về một số chỉ báo kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản duy trì ở mức 2,6% trong tháng 11, không thay đổi so với tháng 10 và khớp với dự báo. Sản lượng công nghiệp của Nhật Bản trong tháng 11 suy giảm 2,6% so với thang sau khi tăng 1,5% ở tháng trước đó, sâu hơn mức giảm 1,9% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2024, sản lượng công nghiệp giảm khoảng 2,1%.

Cuối cùng, doanh số bán lẻ tại Nhật Bản tăng 1,0% so với cùng kỳ trong tháng 11, thu hẹp so với mức tăng 1,7% của tháng 10, gần khớp với mức tăng 0,9% theo dự báo.

Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/diem-lai-thong-tin-kinh-te-tuan-tu-22-2612-175832.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.