Hữu Loan và hoa sim, hoa lúa

Hữu Loan là nhà thơ đa tình bậc nhất. Không kể những người phụ nữ chỉ ghé qua đời ông một thời hay một thoáng, chỉ kể những người phụ nữ chính thức làm vợ ông đã là hai.
Hữu Loan và hoa sim, hoa lúa
Nhà thơ Hữu Loan

Ông đền đáp tấm chân tình của họ bằng những bài thơ, trong đó có hai bài để đời: “Màu tím hoa sim” và “Hoa lúa”. Bài “Hoa lúa” dành tặng người vợ thứ hai. Bà vừa ra đi.

Người vợ đầu tiên của ông là thiếu nữ Lê Đỗ Thị Ninh, đẹp như bông hoa rừng, nhưng chỉ sống với ông được một đêm, hôm sau ông ra trận. Nơi gia đình tản cư, một lần ra suối giặt, chiếc áo bị dòng nước đưa ra xa, cô gái nhoài người với tay vớt lại, mất đà ngã xuống… Mất mát lớn nhất của tài năng thơ. Nhưng, thơ Việt Nam có được “Màu tím hoa sim” bất tử.

Năm 1955, 6 năm sau cái chết của người vợ trẻ, Hữu Loan mới đến với Phạm Thị Nhu – cuộc hôn nhân cuối cùng, với tất cả những lời yêu đẹp nhất. Em là em gái đồng xanh/ Tóc dài/ vương hoa lúa/ Đôi mắt em mang/ chân trời quê cũ/ giếng ngọt/ cây đa… và bài thơ kết bằng một lời thề: ta đi/ đầu sát/ bên đầu/ mắt em/ thăm thẳm/ đựng màu trời quê.

“Hoa lúa” cho người vợ kế – bà Phạm Thị Nhu là tiếng reo vui, là khúc tụng ca người vợ trẻ, tụng ca từ mái tóc dài vương hoa lúa, đến đôi mắt nâu thăm thẳm (soi trong ấy màu xanh chân trời quê cũ/ giếng ngọt cây đa). Tả cả tiếng nói (tiếng quê hương/ muôn đời/ và tiếng em/ là một), cả tiếng hát người vợ trẻ cũng hiện lên (em ca giữa đồng xanh/ bát ngát). Giọng điệu thơ gợi cái vui rộn ràng, chiêng trống, đàn sáo ngày hội mùa. Như vẫn chưa nói hết lòng mình, tác giả phải nói thẳng ra mới thỏa: Anh kiêu hãnh/ có quê hương bất khuất/ và có người yêu là em gái quê hương/ Anh yêu em muôn vàn…

Hẳn cô thôn nữ Phạm Thị Nhu (đã một lần yêu không thành) ngất ngây hạnh phúc khi người anh hùng Đèo Cả, oai phong lẫm liệt, mắt sáng, giọng ấm, lại là thầy giáo cấp ba của trường do anh trai mình làm hiệu trưởng, hỏi mình làm vợ. Cô ưng thuận ngay. Cuộc hôn nhân này, đúng là cuộc hôn nhân cuối cùng đã theo Hữu Loan suốt quãng đời còn lại. Mấy chục năm ròng bà Nhu vẫn chung lưng đấu cật với chồng xoay đủ nghề kiếm sống. Bà cho các con gọi bà Ninh là mẹ già. Để ông lập một bàn thờ riêng bà Ninh trong buồng ông. Hàng năm vẫn cùng chồng con làm giỗ bà Ninh.

Theo lời kể của con cái, trước ngày mất ít hôm, với bà mọi việc đều thanh thản, trừ một điều.

- Ấy là hơn bốn chục năm bố con vẫn còn làm thơ về mẹ già. Mẹ chỉ lo xuống dưới ấy, bố con đi với mẹ già rồi. Đã mấy lần mẹ nghe bố con ngâm: Kiếp này đã dở dang nhau/ Thì xin kiếp khác duyên sau lại thành (Kiều). Cậu con trai cố làm cho mẹ yên lòng: “Bố sống với mẹ già chỉ có một đêm. Bố sống với mẹ 55 năm là bao nhiêu đêm? Bố với mẹ già không được anh chị nào. Với mẹ những mười người con đẻ, mười dâu rể, một đàn cháu chắt. Chúng con tính cả rồi. Bác Hạng (nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng), chú Chính (ông Nguyễn Văn Chính, người mua bản quyền “Màu tím hoa sim”), rồi nhà thơ Nguyễn Duy, ba nhà điêu khắc: Nguyễn Thị Kim, Vũ Đại Hải, Lê Hiệp, nhà sử học Dương Trung Quốc và nhiều cô chú cả Bắc lẫn Nam đã bàn bạc, thống nhất một phác thảo tượng bố bằng đá đen rồi... Mẹ già có “Màu tím hoa sim”, mẹ có “Hoa lúa”. Các bác các chú ấy còn định đặt mộ bố ở giữa hai bên là hai mẹ. Mộ bố không hình chữ nhật mà là hình vuông (bởi ông đã tự xưng tôi, cây gỗ vuông chằn chặn suốt đời/ Đã làm thất bại âm mưu/ đẽo tròn/ để muốn tùy tiện/ lăn lóc thế nào/ thì lăn lóc). Trên mộ mẹ già sẽ khắc bài “Màu tím hoa sim”, trên mộ mẹ là bài “Hoa lúa”.

Cậu con trai tên Đán thầm nghĩ, khi “Hoa lúa” bay về trời theo bố, hẳn lòng cũng đã thanh thản.

Nguyễn Bắc Sơn

Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/huu-loan-va-hoa-sim-hoa-lua-24305.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.