Chuyện Tết với nhà nông
08:51 | 26/02/2015
Một thị trường kết nối kém giữa người làm ra sản phẩm và người tiêu dùng khiến cho động lực thúc đẩy sản xuất giảm xuống. Lợi ích mỗi vụ mùa ngày càng bất định.
Tiễn các con quay về nơi công tác sau kỳ nghỉ Tết, ông Đoàn Văn Chính (xã Kỳ Sơn, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương) tất tả ra đồng. Năm nay thời tiết nóng, ẩm sớm, báo hiệu mùa dưa hấu đồng sẽ nhiều thuận lợi. Ông Chính hy vọng vụ thu hoạch dưa vào tháng 5 tới sẽ khấm khá hơn so với vụ hoa lơ trắng cuối năm rồi gần như chỉ lấy công làm lãi.
Ảnh minh họa |
Năm ngoái, hàng chục hộ trồng hoa lơ tại xã Kỳ Sơn hoàn toàn bị động trước thương lái. Chưa khi nào có chuyện hoa lơ cứ cắt, giá báo sau. Cho nên, lúc đầu thu hoạch ít, các hộ còn được trả cho 5-7 nghìn đồng/kg, nhưng đến lúc thu hoạch rộ, giá xuống chỉ còn 2,5 nghìn đồng/kg. Bà con trồng hoa lơ cũng chẳng còn cách nào khác là cho thương lái chặt, dù nhiều nông dân biết các xe tải tập trung ở một khách sạn đầu xã, mua gom từ các thương lái với giá 6,5 nghìn đồng/kg. Cuối năm ngoái, nhiều hộ trồng rau ở Kỳ Sơn đã họp mặt, bàn chuyện liên kết thành một đầu mối để thương lượng giá cho các vụ mùa tới...
Giữa mênh mang đất ruộng bị chia cắt từng ô nhỏ, lô nhô gốc hoa lơ trần trụi xen với bắp cải, xu hào còi không kịp bán dịp trước Tết. Nhiều hộ dân ở Kỳ Sơn mấy năm gần đây chuyển sang trồng rau 3 vụ: dưa hấu, dưa lê, hoa lơ... vì hiệu quả hơn trồng lúa. Với hạn điền mỗi khẩu chỉ hơn 1 sào, canh tác đủ ăn nên nhiều nhà cho thuê ruộng lấy vài chục cân thóc. Ruộng trồng được rau thì 60-70 cân/sào, ruộng trồng lúa có chỗ cho mượn không. Nghe ông Chính nói nhiều người cho mượn lắm. Dường như, phương thức sản xuất nhỏ hiện tại không còn phù hợp!
Những khoảng ruộng nhỏ với từng hộ dường như không còn sinh lợi, nhưng chịu khó bỏ công, với diện tích lớn hơn thì cũng tạm có thu. Theo ông Chính, một vụ dưa hấu khoảng 2 tháng rưỡi có thể cho thu nhập khoảng 5 triệu đồng/sào, làm lớn cũng có lãi để bù cho những vụ thất bát như hoa lơ vừa rồi.
Tạo lợi thế nhờ quy mô sản xuất đang được nhiều hộ dân tính đến trên đồng đất Tứ Kỳ. Đã có một số mô hình làm ăn lớn về nông nghiệp hình thành ở xã Văn Tố, một DN được lập nên, thuê ruộng của dân để trồng dưa chuột bao tử. Người dân có ruộng trở thành “người làm công ăn lương”. Giá sức lao động được xác định mỗi chu kỳ 5 năm... Hay một DN khác đang tìm đối tác trồng lúa giống ở Kỳ Sơn với quy mô vài hecta dự kiến có thể thu về cả trăm triệu mỗi năm...
Với ông Chính, cơ hội cho nông nghiệp vẫn còn, vấn đề là có vốn và phải biết chấp nhận... rủi ro. Nhưng ông sẵn sàng thuê ruộng làm lớn, bỏ vốn đầu tư lớn, nhưng mức độ rủi ro thế nào với đầu ra thì ông Chính chưa tính được?
Lâu nay, sản xuất nông nghiệp chủ yếu là từ các hộ cá thể. Khi đất được giao cho dân, tính tư hữu về tư liệu sản xuất quan trọng nhất này đã từng phát huy hiệu quả, đưa nông nghiệp phát triển rất nhanh trong nhiều thập kỷ qua. Tuy nhiên, nó cũng đặt người nông dân ở vào hoàn cảnh phải “đơn thương độc mã”. Những hỗ trợ về kỹ thuật từ cơ quan quản lý trở nên “được chăng hay chớ”.
Như ông Chính kể, có khi cán bộ nông nghiệp về thăm ruộng, nhìn thửa bên này xanh tươi, bên kia lá úa vàng chẳng giải thích gì… Hay đầu ra người trồng lâu nay vẫn phải tự lo...
Trên thực tế, hệ thống phân phối cũng là vấn đề cản trở lớn. Chi phí quá nhiều ở khâu trung gian để sản phẩm đến với người tiêu dùng khiến cho người trồng và người dùng đều chịu thiệt. Khi không có giá tốt, người trồng không có nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi phải mua đắt, người dùng giảm lượng hàng cần tiêu thụ.
Một thị trường kết nối kém giữa người làm ra sản phẩm và người tiêu dùng khiến cho động lực thúc đẩy sản xuất giảm xuống. Lợi ích mỗi vụ mùa ngày càng bất định. Như ông Chính giờ đây gieo hạt giống mỗi vụ đều bằng… niềm tin, dù mong manh.
Anh Quân